Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
1 Sự khôn khéo trong nghê thuật quân sự của HHT là phương châm " vừa đánh vừa đàm " , từ năm 1897 đến 1909 đã có hai lần đình chiến giữa nghĩa quân với Pháp.
2 Chia nghĩa quân thành nhiều toán nhỏ, phân tán trong rừng và xóm làng nhằm bảo toàn lực lượng và xây dựng căn cứ, kết hợp chiến đấu.
3 Di chuyển hoạt động của nghĩa quân trong địa bàn rộng, gồm Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Phúc Yên nhằm tránh những đợt tấn công tổng lực của địch; đồng thời tích cực phối hợp với nhiều lực lượng ở các nơi khác nhau cùng các nhà yêu nước ở Bắc kỳ và Trung kỳ để tăng thêm sức mạnh cho nghĩa quân.
4 Vừa sản xuất tự túc lương thực, vừa mua sắm vũ khí và luyện quân. Tiêu biểu nhất ở đồn Phồn Xương, Hoàng Hoa Thám đã xây dựng nơi đây thành một xã hội gắn kết chặt chẽ giữa nghĩa quân với dân làng, tạo ra thế trận vững chắc trên một địa bàn rộng lớn.
#hzi
cop bài ở nơi khác thì nhớ ghi tham khảo vào nhé!
https://hoidap247.com/cau-hoi/5806700
Giai đoạn I (1884-1892)
- Từ năm 1884 đến năm 1892: Cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Đề Nắm lãnh đạo. Nhìn chung trong giai đoạn này có đến hàng chục toán quân chống thực dân Pháp hoạt động riêng lẻ với nhiều thủ lĩnh khác nhau, trong đó uy tín nhất chính là Đề Nắm. Mặc dù chưa được thống nhất hoàn toàn những các nghĩa quân cũng hoạt động hiệu quả
- Cuối tháng 12 năm 1890, thực dân Pháp đã ba lần đánh vào Hố Chuối, nhưng nghĩa quân của Đề Thám đã đánh cho tơi bời
- Vào năm 1891, thực dân Pháp tiếp tục tấn công Hổ Chuối, nghĩa quân phải rút lên Đồng Hom. Lúc này Đề Nắm lên làm chỉ huy và trở thành lãnh đạo có uy tín nhất của cuộc khởi nghĩa.
- Tháng 3 năm 1892, thực dân Pháp huy động 2200 quân đặc chiến từ nhiều binh chủng do tướng Voiron cầm đầu tiến đánh vào căn cứ của nghĩa quân. Nghĩa quân dưới sự lãnh đạo đã chiến đấu anh dũng nhưng cuối cùng vẫn phải rút khỏi căn cứ do sự chênh lệch lực lượng quá lớn.
- Lực lượng nghĩa quân bị suy yếu vào cuối năm 1892, một số thủ lĩnh hi sinh, số khác ra hàng quân Pháp, điển hình là thủ lĩnh Đề Nắm bị giết vào tháng 4 năm 1892.
- Trước tình thế hiểm nguy, Đề Thám đã thay Đề Nắm đứng ra lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn về mọi mặt, nhưng nghĩa quân đã tận dụng tối đa thế mạnh của lối đánh cùng với địa hình hiểm trở, kết hợp việc cơ động để thoát khỏi vòng vây của thực dân Pháp
Giai đoạn thứ II (1893-1897)
- Giai đoạn tiếp theo này, Đề Thám khôi phục lại nghĩa quân, tập hợp các binh sĩ còn lại và mở rộng vùng hoạt động.
- Trong hoàn cảnh khó khăn chồng chất, để bảo toàn lực lượng và tiếp tục duy trì cuộc khởi nghĩa, Đề Thám đã hai lần xin giảng hòa với thực dân Pháp vào tháng 10 năm 1894 và tháng 12 năm 1897.
- Theo cuộc thỏa thuận giữa hai bên, tháng 10 năm 1894, thực dân Pháp rút khỏi vùng Yên Thế, Đề Thám cai quản bốn tổng.
- Đến tháng 11 năm 1895, quân Pháp bội ước và tổ chức cuộc tấn công. Nghĩa quân của Đề Thám phải chia nhỏ thành nhiều đoàn, trà trộn vào dân để hoạt động tránh sự phát hiện.
- Lần giảng hòa thứ hai vào tháng 12 năm 1897 được Đề Thám khơi nguồn nhằm bảo toàn nghĩa quân dưới sự truy lùng ráo riết của quân Pháp. Lần này nghĩa quân đã phải giao nộp toàn bộ vũ khí. Mặc dù với tâm thế giảng hòa, tuy nhiên Đề Thám vẫn không hề phục tùng mà ngấm ngầm củng cố lực lượng.
Giai đoạn thứ III (1898-1908)
- Nghĩa quân của Đề Thám vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu trong 11 năm đình chiến. Cuộc khởi nghĩa Yên Thế lịch sử 11 bài 21 được học lúc này đã đi đến giai đoạn cuối. Tranh thủ thời gian hào hoãn, ông cùng nghĩa quân tích cực luyện tập quân sự cùng với hoạt động sản xuất để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu.
- Lực lượng nghĩa quân dù không đông nhưng cực kì thiện chiến. Bên cạnh đó, Đề Thám cũng mở rộng hoạt động với các nhà yêu nước thuộc Bắc và Trung Kì.
- Yên Thế lúc này trở thành căn cứ tập hợp của nhiều anh em chiến sĩ yêu nước từ khắp mọi miền. Nghĩa quân của Đề Thám đã đón tiếp nhà yêu nước Phan Bội Châu hai lần tại đây. Nhà chiến sĩ yêu nước Phan Chu Trinh cũng đến đây trong năm 1906.
- Một căn cứ tên là Tú Nghệ ra đời dành cho các nghĩa sĩ miền Trung.
- Thực dân Pháp giai đoạn này cũng ra sức lập đòn bốt giao thông nhằm đánh đòn quyết định vào khởi nghĩa Yên Thế.
Giai đoạn thứ IV (1909-1913)
- Trong năm 1908 một số quân Pháp bị giết khi Đề Thám tham gia cuộc nổi dậy của lính khố xanh. Đến tháng 7 cùng năm, dưới sự tham gia và lãnh đạo của ông, một số lính Pháp bị đầu độc. Kế hoạch được vạch ra rất chi tiết, nhưng kết quả vẫn thất bại.
- Đầu tháng 1 năm 1909, thực dân Pháp quyết đánh trả tiêu diệt nghĩa Quân. Dưới sự chỉ đạo của Batay, cuộc khởi nghĩa bị tấn công bởi 15.000 quân Pháp thiện chiến. Do lực lượng quá chênh lệch, nghĩa quân cầm cự chống đỡ và rút lui dần.
- Trên đường di chuyển để rút lui, nghĩa quân của Đề Thám vẫn chống trả quyết liệt khiến quân Pháp nhiều phen hoảng loạn.
- Cuối năm 1909, lực lượng nghĩa quân giảm sút nghiêm trọng do sự truy đuổi của kẻ thù, hầu hết các thủ lĩnh đều hi sinh hoặc rơi vào tay giặc, một số bỏ trốn.
- Đề Thám phải nhờ Lương Tam Kỳ hỗ trợ, nhưng cuối cùng ông lại bị sát hại bởi thủ lĩnh của hắn. Sự kiện này đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của cuộc khởi nghĩa.
em tham khảo:
Diễn biến:
* Giai đoạn 1 (1884 → 1892)
- Nghĩa quân còn hoạt động riêng lẽ, thủ lĩnh là Đề Nắm sau là Đề Thám (Hoàng Hoa Thám)
* Giai đoạn 1893 → 1892
- Thời kỳ nghĩa quân vừa chiến đấu vừa xây dựng cơ sở
- Do tương quan lực lượng nghĩa quân đã hai lần hòa giải với Pháp
- Tranh thủ thời gian hòa giản lần tứ 2; nghĩa quân đồn điền tích lũy lương thực và liên lạc vs nhiều nhà yêu nước: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh
* Giai đoạn 3:
Pháp tấn công quy mô lên Yên Thế, lực lượng nghĩa quân hao mòn dần
- 10/2/1913, Đề Thám hy sinh, phong trào Yên Thế tất bại
- Nguyên nhân khởi nghĩa lâu dài do phần nào kết hợp được vấn đề dân tộc và dân chủ (ruộng ất) cho dân
Tham khảo
Lập bảng thống kê những nét chính về các giai đoạn phát triển của cuộc khởi nghĩa Yên Thế ?
Nguyên nhân thất bại: do Pháp lúc này còn mạnh lại có sự câu kết với thế lực phong kiến. Trong khi đó lực lượng nghĩa quân còn mỏng và yếu, cách thức tổ chức lãnh đạo còn nhiều hạn chế.
- Ý nghĩa: Thể hiện tinh thần yêu nước chống Pháp của giai cấp nông dân. Góp phần làm chậm quá trình bình định của thực dân Pháp.
* Giai đoạn thứ ba từ 1898 - 1908:
- Tranh thủ thời gian hòa hoãn, Đề Thám cho nghĩa quân vừa sản xuất, vừa tích cực luyện tập quân sự chuẩn bị chiến đấu.
- Căn cứ Yên Thế trở thành nơi tụ hội của những nghĩa sĩ yêu nước từ khắp nơi kéo về (từ Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Hưng Yên, Hải Dương…)