K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

4 tháng 12 2023

có 3 chữ cái

 

5 tháng 12 2023

Đúng rồi em nhé, bài em vừa học trên olm là bài có 3 chữ cái gồm:

o; ô; ơ

25 tháng 3 2016

27. Năm 2016 Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh tròn 75 tuổi.

29. Năm 2016 Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tròn 85 tuổi.

30. Những ngày lễ đáng ghi nhớ trong tháng 3 là:

  • 8 - 3 - 1910: QT phụ nữ.
  • 26 - 3 - 1931: Thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
  • 27 - 3 - 1946: Thể thao Việt Nam.
25 tháng 3 2016

thanhk you , Ngo Thuy An

10 tháng 4 2016
  

I- TỪ HỌ HỒNG BÀNG ÐẾN CUỐI NHÀ TRIỆU

HỌ HỒNG BÀNG

Việt Nam tổ chức thành xã hội từ khoảng gần 3000 năm trước Tây Lịch (Thiên Chúa giáng sinh) và họ Hồng Bàng làm vua 18 đời kéo dài 2621 năm (2879-258 TCN). Ðây chỉ là một truyền thuyết và chúng ta có thể tạm chấp nhận được, để giải thích về nguồn gốc dân tộc khi mà chưa có một giải thích khoa học chính xác hơn.
Việt Nam bấy giờ có tên là Văn Lang, kinh đô đặt ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Vĩnh Yên (Bắc Phần). Lãnh thổ gồm Bắc Việt và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. Ngoài triều đình có các hàng quan lại, ở địa phương còn có quan võ gọi là Lạc tướng, quan văn là Lạc hầu, đều có thái ấp riêng. Sinh hoạt về vật chất còn thô sơ, có những tục vẽ mình, nhuộm răng, ăn trầu, theo chế độ mẫu hệ... tôn thờ các sức mạnh thiên nhiên như Thần núi, Thần sông, Thần gió...
Ðến đời Hùng Vương thứ 18, Thục Phán ở phía Bắc Văn Lang sang đánh, Hùng Vương thua nhảy xuống sông tự tử năm 258 TCN.


AN DƯƠNG VƯƠNG - TRIỆU ÐÀ

Thục Phán tự xưng làm vua năm 257 trước Tây lịch hiệu là An Dương Vương, đóng đô ở Phong Khê (Phúc Yên) và cho xây dựng thành Cổ Loa rất kiên cố. Lúc bấy giờ, bên Tàu Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ, sai Ðồ Thư mang quân sang đánh Âu Lạc. Nhưng sau 10 năm đánh nhau, Ðồ Thư bị giết, quân Tần phải rút lui . Ðây là lần đầu tiên Âu Lạc chống lại quân xâm lược từ phương Bắc của Trung Hoa .
Ít lâu sau, Triệu Ðà từ quận Nam Hải (Quảng Ðông bây giờ) sang đánh Âu Lạc, An Dương Vương mắc mưu thua chạy, rồi tự tử. Từ đó Triệu Ðà sát nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải và Quế Lâm (Quảng Tây) tạo thành nước Nam Việt lên ngôi vua lấy hiệu là Triệu Vũ Vương đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Ðông)


NHÀ TIỀN HÁN XÂM LĂNG NAM VIỆT

Bấy giờ ở Trung Hoa là triều đại Tiền Hán, năm 916 Triệu Vũ Vương giao thiệp với nhà Hán. Sau Triệu Vũ Vương là các vua Văn vương, Minh vương & Ai vương đều bất tài nhu nhược. Ðời vua Ai Vương, nhà vua còn nhỏ, Cù Thị là mẹ của Ai Vương vốn gốc người Hán, xúi giục Ai Vương đem đất nước dâng nhà Hán. Tể tướng Lữ Gia can ngăn không được, phải bắt giết cả hai mẹ con Cù Thị, rồi lập anh của Ai Vương lên làm vua lo chuẩn bị chống lại nhà Hán. Sau đó nhà Hán sai tướng Lỗ Bác Ðức sang đánh, Lữ Gia yếu thế bị bắt giết, mở đầu cho một thời đại Bắc thuộc đen tối của dân tộc.


         II- THỜI ÐẠI BẮC THUỘC

BẮC THUỘC LẦN THỨ NHẤT (111 TCN - 39 SCN)


Sau khi chiếm Nam Việt, nhà Hán đặt nền đô hộ đầu tiên của phương Bắc lên nước ta . Nam Việt bị đổi thành một bộ của Trung Hoa gọi là Giao Chỉ bộ chia ra làm nhiều quận nhỏ, mỗi quận có quan lại người Tàu cai trị. Trong suốt thời gian Bắc thuộc lần thứ nhất kéo dài 150 năm, kể từ năm 111 TCN cho đến năm 39 SCN, dân tộc ta chịu trăm điều khổ sở vì các thái thú người Tàu đại đa số tham lam, tàn ác, luôn luôn vơ vét của dân cho đầy túi tham, ngoài phần đóng thuế cho triều đình Trung Hoa


CUỘC KHỞI NGHĨA CỦA HAI BÀ TRƯNG

Năm 34 SCN, Tô Ðịnh làm Thái thú quận Giao Chỉ là một người tham lam tàn bạo dân chúng vô cùng oán hận. Tô Ðịnh giết Thi Sách là con Lạc Tướng Châu Diên (Vĩnh Yên) khi Thi Sách mưu việc chống Tàu . Vợ Thi Sách là Trưng Trắc cùng với em Trưng Nhị nổi lên đánh đuổi Tô Ðịnh báo thù cho chồng rửa hận cho nước, Tô Ðịnh thua chạy về Tàu năm 40 SCN chấm dứt sự đô hộ của nhà Hán đối với Nam Việt lần thứ nhất. Hai Bà lên ngôi vua đóng đô ở Mê Linh (năm 40SCN) . Năm 41 danh tướng nhà Hán là Mã Viện mang quân sang đánh, cầm cự cho đến năm 43 thì Hai Bà thất trận chạy đến sông Hát Giang rồi trầm mình. Từ đó nước ta lệ thuộc Trung Hoa lần thứ hai .


BẮC THUỘC LẦN THỨ HAI

Sau khi thắng được Hai Bà Trưng, Mã Viện cho tổ chức việc cai trị chặt chẽ hơn trước, các Lạc hầu Lạc tướng bị tước hết quyền hành, nước ta coi như một phần đất của Trung Hoa . Các Thái Thú thẳng tay đàn áp, thi hành chính sách đồng hóa dân ta: cách ăn mặc, nhà ở, phong tục, học hành, lễ giáo ... đều bắt buộc phải theo Tàu, về sau đổi tên nước ta lại là Giao Châu . Các quan Tàu đều tham lam, tàn ác, dân ta vô cùng khổ sở phải lên rừng săn voi lấy ngà, xuống biển mò ngọc trai dâng nạp cho quan Tàu . Trong suốt 501 năm (43-544) trải qua các triều đại khác nhau của Trung Hoa dân ta phải luôn luôn gánh chịu những áp bức của người Tàu đô hộ. Tuy nhiên trong khoảng thời gian dài đăng đẳng đó, cũng có cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu năm 248, tuy không thành công trong việc đánh đuổi người Tàu nhưng đã nói lên tinh thần ái quốc của dân tộc, ảnh hưởng lớn lao đến các cuộc khởi nghĩa sau này.


CUỘC KHỞI NGHĨA CỦA LÝ BÔN CHẤM DỨT BẮC THUỘC LẦN HAI - NHÀ TIỀN LÝ (544-602)

Trong thời Nam Bắc triều bên Tàu, đất Giao Châu thuộc nhà Lương. Thứ Sử Tiêu Tư làm nhiều điều tàn ác, lòng người oán giận đồng thời quân Lâm Ấp là nước ở cạnh Giao Châu thường sang cướp phá luôn, dân chúng vô cùng khổ sở. Năm 541, Lý Bôn người huyện Thái Bình (Sơn Tây) nổi lên đánh đuổi Tiêu Tư và dẹp tan quân Lâm Ấp sang quấy nhiễu .
Thắng trận, năm 544 Lý Bôn tự xưng làm vua hiệu Lý Nam Ðế, đặt tên nước là Vạn Xuân, chấm dứt Bắc thuộc lần thứ hai, đồng thời tạo được một thời gian độc lập lâu dài của dân tộc sau gần 700 năm bị giặc Tàu đô hộ. Năm 545 quân Tàu kéo sang đánh nước ta, Lý Nam Ðế già yếu trao quyền lại cho Triệu Quang Phục chống cự với quân Tàu, cho đến năm 549 thì giặc Tàu thua chạy về nước, Lý Nam Ðế đã mất, Triệu Quang Phục lên ngôi xưng là Triệu Việt Vương. Ðến năm 571 Lý Phật Tử là cháu Lý Nam Ðế cướp ngôi Triệu Việt Vương, tự xưng là Hậu Lý Nam Ðế. Ðể rồi hơn 30 năm sau, năm 602, quân Tàu sang đánh Lý Phật Tử đầu hàng. Một lần nữa nước ta lại bị lệ thuộc vào sự đô hộ khắc nghiệt của nhà Tùy bên Tàu . Thời tự chủ kéo dài trong 58 năm đặt nền móng cho tinh thần chống người Tàu từ phương Bắc của dân tộc ta về sau này .


BẮC THUỘC LẦN THỨ BA (602 - 938)

Năm 602 nhà Tùy cai trị nước ta, nhưng đến năm 618 thì nhà Tùy bị nhà Ðường diệt, Giao Châu lại lệ thuộc vào nhà Ðường và đổi tên thành An Nam Ðô Hộ Phủ. Chính sách cai trị của nhà Ðường khắc nghiệt nhất so với các triều đại khác của Trung Hoa, đã vậy quân Lâm Ấp & quân Nam Chiếu thường sang cướp phá luôn, dân gian khổ sở trăm bề.
Mãi cho đến năm 722, Mai Thúc Loan người tỉnh Hà Ðông nổi lên chống với quân Ðường, chiếm giữ một phần đất ở Hoan Châu (Nghệ An). Nhưng sau đó Mai Thúc Loan yếu thế thua chạy rồi bị bệnh mất. Sau cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan, nhà Ðường lại càng siết chặt việc cai trị hơn trước nữa . Năm 791, Phùng Hưng người tỉnh Sơn Tây đánh đuổi quân Ðường về Tàu, lo việc cai trị sửa sang lại nước được mấy tháng rồi mất. Con là Phùng An lên thay nhưng thế lực đã suy yếu phải hàng nhà Ðường khi xâm chiếm nước ta lần nữa, dân ta lại lệ thuộc Trung Hoa .


THỜI KỲ CHUYỂN TIẾP ÐỘC LẬP VỚI DƯƠNG DIÊN NGHỆ - NGÔ QUYỀN ( 931-938 )

Nhà Nam Hán đặt Lý Tiến làm Thứ sử Giao Châu từ năm 923 đến năm 931 thì Dương Diên Nghệ nổi lên đánh đuổi quân Nam Hán, Lý Tiến thua chạy về Tàu\. Dương Diên Nghệ tự xưng làm Tiết Ðộ Sứ cai trị Giao Châu . Năm 937, Dương Diên Nghệ bị nha tướng là Kiều Công Tiện giết để chiếm đoạt quyền hành. Bấy giờ Ngô Quyền là rể Dương Diên Nghệ từ Thanh Hoá ra bắt Kiều Công Tiện giết đi và phá tan quân Nam Hán trên sông Bạch Ðằng năm 938 khi quân Nam Hán âm mưu chiếm lại nước ta do sự cầu cứu của Kiều Công Tiện - trước khi chết. Thắng trận Bạch Ðằng Ngô Quyền chấm dứt hẳn thời đại Bắc thuộc kéo dài 1050 năm, mở đường tự chủ cho dân tộc lâu dài từ năm 938 trở về sau .


         III- THỜI ÐẠI ÐỘC LẬP

NHÀ NGÔ (938 - 965)


Sau khi phá quân Nam Hán, Ngô Quyền xưng vương (939) đóng đô ở Cổ Loa huyện Ðông Anh (Phúc Yên), sửa sang việc cai trị mong xây dựng một nền tự chủ vững bền cho quốc gia dân tộc. Ngô Quyền mất năm 944, dần dần về sau thế lực nhà Ngô ngày một suy yếu vì triều đình không có được những bậc công thần gánh vác việc nước. Ðến năm 965 đời vua Ngô Xương Xí, thì mỗi vùng một thổ hào tạo lấy cho mình một thế lực riêng không tôn phục nhà Ngô nữa, rồi mang quân đánh lẫn nhau, gọi là loạn Thập nhị sứ quân mà trong đó Ngô Xương Xí cũng là một sứ quân. Năm 968 Ðinh Bộ Lĩnh dẹp tan loạn sứ quân lập nên nhà Ðinh.


NHÀ ÐINH (968 - 980)

Ðinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư tỉnh Ninh Bình, lên ngôi năm 968 lấy hiệu là Ðinh Tiên Hoàng, đặt tên nước Ðại Cồ Việt đóng đô ở Hoa Lư, đã có công chăm sóc, sửa sang lại đất nước sau thời kỳ nội chiến tương tàn. Nhà Ðinh cố lo tổ chức việc binh , có được 10 đạo quân hùng mạnh so với thời bấy giờ. Về sau Ðinh Tiên Hoàng ham mê tửu sắc làm cho triều đình suy yếu đi, đến đời vua cuối cùng là Ðinh Tuệ mới sáu tuổi thì quân Tống sang đánh, Dương Thái Hậu cùng với các tướng sĩ tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàng lên ngôi để đôn đốc quân sĩ đánh giặc. Nhà Ðinh mất ngôi năm 980 sau 12 năm trị vì.


NHÀ TIỀN LÊ (980 - 1009)

Lê Hoàng lên ngôi lấy hiệu là Ðại Hành Hoàng Ðế, đánh tan quân Tống và chinh phạt Chiêm Thành khi Chiêm Thành bắt sứ giả của ta . Vua Lê Ðại Hành chăm lo việc cai trị, tổ chức quân đội, mở mang nông nghiệp, đúc tiền, đào cảng, mở đường giao thông...
Năm 1004 vua Lê Ðại Hành mất, các vị vua về sau nhu nhược ham mê tửu sắc, tàn ác, nhà Tiền Lê suy yếu đi và mất ngôi vào năm 1009 về tay nhà Lý.


NHÀ LÝ (1010 -1225)

Vua Lê Ngọa Triều làm nhiều điều tàn ác lòng dân cũng như triều đình oán giận, nên khi mất đi thì các quan tôn Lý Công Uẩn đang giữ chức Ðiện Tiền Chỉ Huy Sứ lên ngôi . Lý Công Uẩn lấy hiệu là Lý Thái Tổ, dời đô ra thành Ðại La tức Hà Nội bây giờ. Việc nội trị từ Lý Thái Tổ về sau vô cùng hoàn bị, các phương tiện hành chánh, chính trị, kinh tế, quân sự, tôn giáo ... được tổ chức chu đáo . Nhất là vào triều đại của vua Lý Nhân Tôn (1072-1117) Khoa thi đầu tiên của nước ta được tổ chức, văn học được chú trọng, quân sự cũng hùng mạnh, Lý Thường Kiệt, Tôn Ðản mang quân sang đánh Tống tận bên Tàu và phá tan giặc Tống sang báo thù (1075 - 1076), chinh phạt Chiêm Thành (1103) làm cho nhà Tống nể sợ, Chiêm Thành phải triều cống.


Khi Tống sang đánh nước ta, để thúc lòng quân sĩ chống giặc, Lý Thường Kiệt đã làm bài thơ nổi tiếng sau đây:

Nam Quốc sơn hà Nam Ðế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thử bại hư

Về sau, vua Lý Huệ Tôn nhu nhược giao cả binh quyền cho Trần Thủ Ðộ, nghe lời Trần Thủ Ðộ truyền ngôi cho Công Chúa Lý Chiêu Hoàng mới 7 tuổi để đi tu . Trần Thủ Ðộ ép Lý Chiêu Hoàng lấy cháu mình là Trần Cảnh rồi truyền ngôi cho chồng năm 1225, nhà Lý mất nghiệp kể từ đó.


NHÀ TRẦN (1225 -1400)

Trần Cảnh lên làm vua lúc 8 tuổi, hiệu là Trần Thái Tôn, mọi việc trong nước đều do Trần Thủ Ðộ quyết định. Trần Thủ Ðộ định lại việc việc cai trị, tổ chức một triều đình có nếp, ấn định thuế má, mở mang nông nghiệp, việc binh bị cũng được đặc biệt chú trọng để tránh hiểm họa phương Bắc. Văn học đã mở mang rộng rãi, Nho học, Phật giáo, Lão giáo đều được triều đình chú trọng. Nhiều nhà Nho, nhà văn nổi tiếng như Mạc Ðĩnh Chi, Hàn Thuyên, Lê Văn Hưu ... được nhắc nhở trong thời đại này .
Năm 1257, sau khi vó ngựa đã dẫm nát Trung Hoa, biến Trung hoa thành nô lệ cho nhà Nguyên và làm rung chuyển cả Âu Châu, quân Mông Cổ quay sang bắt đầu đánh nước ta . Tuy nhiên, chỉ ít lâu sau đạo quân Mông Cổ bị đánh bại tan tành không còn manh giáp phải chạy về Tàu, đánh dấu cho lần thất bại đầu tiên của nhà Nguyên ở Việt Nam.
Năm 1284, để phục hận cho lần trước bị đánh bại, quân Mông Cổ đem 50 vạn quân do Thoát Hoan, Toa Ðô, cùng Ô Mã Nhi tràn sang xâm chiếm nước ta . Trước thế giặc quá mạnh, vua Trần Nhân Tôn hội họp các Vương Hầu ở Bình Than chia nhau ra chống giặc. Ðồng thời triệu tập các bô lão ở diện Diên Hồng để hỏi nên hòa hay nên chiến - các bô lão đều đồng thanh xin đánh giặc cả.
Giai đoạn đầu thế giặc mạnh như nước vỡ bờ, quân ta phải rút lui về giữ những nơi hiểm yếu . Về sau với những danh tướng tài giỏi như Trần Hưng Ðạo, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão ... và tinh thần dốc lòng đánh giặc của toàn dân, nên Toa Ðô đã bỏ xác với vô số quân Mông Cổ, còn Thoát Hoan và Ô Mã Nhi cùng tàn quân chạy trối chết về Tàu . 50 vạn quân Mông Cổ tan rã nhục nhã trong vòng không đầy một năm (1284-1285). Lần thứ hai nhà Nguyên thảm hại chua cay trước dân tộc Việt khi đã mở rộng đế quốc của họ ra đến tận Âu Châu .
Ðể phục thù, nhà Nguyên đình lại việc đánh Nhật Bản, quay sang đánh nước ta . Thuyền chiến, lương thực, khí giới, quân lính được chuẩn bị chu đáo, nhà Trần biết được điều đó cũng lo phòng bị đối phó với giặc. Năm 1287 Thoát Hoan, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp dẫn 30 vạn quân cùng với 500 chiến thuyền ào ạt tràn sang nước ta lần thứ ba .
Giai đoạn đầu, giặc quá mạnh, vua tôi nhà Trần phải lánh vào Thanh Hóa để tránh mũi dùi của giặc và kêu gọi khắp nơi cầm cự với quân Nguyên. Về sau quân ta bắt được thuyền lương của giặc từ bên Tàu chuyển qua ở Vân Ðồn làm cho quân Mông Cổ run sợ - để rồi một lần nữa sóng nước Bạch Ðằng đã nhận chìm vô số quân Mông Cổ và Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp với 400 chiến thuyền bị quân ta bắt được. Trên đường chạy trốn về nước, Thóat Hoan còn bị Phạm Ngũ Lão phục binh đánh cho một trận tơi bời, chạy trối chết về Tàu .
Ðạo quân Mông Cổ mà vó ngựa đã từng dẫm nát lục địa Trung Hoa, xâm chiếm Nga-la-tư rộng lớn, đánh tan các đội kỵ binh Âu Châu, làm run chuyển một phần lớn vùng này, với ba lần thất bại, đã phải cúi đầu trước sức kháng cự của dân tộc Việt mà từ bỏ mộng xâm lăng nước ta, cho đến khi nhà Nguyên bị diệt bên Tàu .
Về cuối đời nhà Trần, các vua nhu nhược, triều chính không người coi sóc, binh bị sao lãng để ba lần quân Chiêm Thành đánh phá đến tận Thăng Long. Vào năm 1390, vua Chiêm là Chế Bồng Nga lại kéo quân sang đánh, bị Trần Khắc Chân bắn chết từ đó giặc Chiêm mới yên. Tuy nhiên nhà Trần đã suy sụp lắm rồi nên Lê Quý Ly lộng quyền âm mưu diệt trừ các thế lực của nhà Trần dần dần, cho đến năm 1400 thì soán đoạt ngôi của Thiếu Ðế. Nhà Trần mất nghiệp sau 175 năm trị vì.


NHÀ HỒ (1400-1407)

Lên ngôi rồi, Lê Quý Ly đổi trở lại là Hồ Quý Ly, đặt tên nước Ðại Ngu, đóng đô ở Tây Ðô (Thanh Hóa) Nhìn chung, nhà Hồ tuy ở ngôi có 7 năm nhưng đã làm được rất nhiều như: giảm thuế đinh, thuế điền, đặt ra thuế thuyền buôn, những quả phụ cô nhi và những người không có ruộng đất được miễn thuế. Hồ Quý Ly còn có sáng kiến in giấy bạc để thay cho tiền đồng, nhằm tiện việc buôn bán, làm giàu cho ngân khố. Việc học hành thi cử cũng thay đổi rất nhiều: đặt ra thêm môn thi toán pháp, dùng chữ Nôm để giảng dạy khắp trong nước và soạn thảo công văn, sớ biểu . Phật Giáo cuối đời nhà Trần suy yếu đi nhiều vì thiếu những bậc chân tu sâu sắc . Ngoài ra nhà Hồ lại đặt ty y-tế để lo việc thuốc thang cho dân, đồng thời nhà Hồ cũng chú ý rất nhiều đến việc tổ chức binh bị để tránh hiểm họa phương Bắc. Năm 1042 nhà Hồ mang quân đánh Chiêm Thành, di dân vào khai phá Quảng Nam và Quảng Ngãi ngày nay, mở rộng bờ cõi về phương Nam.
Tuy nhiên, về sau khi quân Minh sang đánh với chiêu bài khôi phục cho nhà Trần, nhiều cựu thần còn tưởng nhớ tới thời vàng son của nhà Trần nên theo giặc rất đông, đồng thời quan niệm về chiến thuật của nhà Hồ sai lầm nên năm 1407, Hồ Quý Ly và con cháu thua trận bị bắt giải về Tàu, giữa đường tự tử chết, nhà Hồ mất nghiệp sau 7 năm.


NHÀ HẬU TRẦN (1409 - 1413)

Quân Minh sau khi đánh bại Hồ Quý Ly, âm mưu chiếm luôn nước ta . Trước dã tâm đó của quân Minh, con cháu của nhà Trần và nhiều cựu thần, anh hùng hào kiệt không muốn làm nô lệ, bất hợp tác với chúng. Do đó, quân Minh luôn luôn gặp sự chống đối của con cháu nhà Trần được sự ủng hộ của toàn dân và nhiều người tài giỏi .
Năm 1407, Trần Quỹ con thứ của vua Trần Nghệ Tôn xưng là Giản Ðịnh Ðế chiêu mộ quân chống giặc Minh. Ðầu năm 1409 thì Giản Ðịnh Ðế vào Thanh Hóa để phụ với Trần Quý Khoách là cháu Trần Nghệ Tôn cùng lo việc khôi phục. Ðược nhiều người tài giỏi giúp sức nhà Hậu Trần đánh nhau với quân Minh mãi cho đến năm 1413 thì tan vỡ, từ đó nước ta mới lệ thuộc hẳn nhà Minh bên Tàu.


NƯỚC TA THUỘC NHÀ MINH (1414 - 1427)

Ðến năm 1414, nhà Minh chính thức cai trị nước ta, một chính sách rất chặt chẽ và khắc nghiệt về mọi phương diện. Về hành chánh phân chia nước ta ra làm nhiều cấp để cai trị, nhiều thứ thuế mới được đặt ra, bắt dân lên rừng săn ngà voi, xuống biển mò ngọc trai nộp cho chúng. Ðồng hóa dân ta với Tàu bằng mọi cách, chỉ cho phép lưu hành Tứ Thư Ngũ Kinh của Trung Hoa mà thôi, trong khi sách vở quý giá của ta từ đời Trần trở về trước thì chúng tóm thâu cho hết về Tàu . Chúng bắt dân ta phải thờ cúng Thần thánh của Trung hoa theo các phong tục Trung Hoa .


MƯỜI NĂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN MINH (1418 - 1427):


LÊ LỢI


Lê Lợi là một phú nông ở làng Lam Sơn (Thanh Hóa), trước sự tàn ác dã man của quân Minh, năm 1418 Lê Lợi được nhiều người tài giúp sức đã phất cờ khởi nghĩa đánh đuổi giặc Minh. Trong giai đoạn đầu Lê Lợi phải vất vả rất nhiều, có lần phải xin tạm hòa với giặc, phải để cho gia đình bị giặc bắt, cũng như để cho tùy tướng thân cận là Lê Lai liều mình cứu khỏi vòng vây .
Về sau, nhờ Nguyễn Trãi bày mưu ta thắng giặc nhiều trận, vây tướng Minh là Vương Thông ở Ðông Ðô (Hà Nội), chém Liễu Thăng ở Chi Lăng khi Liễu Thăng mang quân giải cứu Vương Thông.
Cuối cùng năm 1427, Vương Thông phải đầu hàng để kết thúc 10 năm gian khổ giành độc lập của Lê Lợi cùng toàn dân.


NHÀ HẬU LÊ (1428-1527)

Lê Lợi lên ngôi năm 1428 lấy niên hiệu là Lê Thái Tổ, đặt tên nước là Ðại Việt đóng đô ở Thăng Long. Chia đất nước ra làm 5 đạo, đặt quan cai trị. Tại triều có quan Tả Hửu tướng quốc đứng đầu các quan, có Thượng Thư đứng đầu các bộ Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình, Công. Nông nghiệp được khuyến khích, đắp đê để tránh lụt, mở thêm đồn điền, khai khẩn đất hoang, qui định thuế má rõ ràng, và định lại phép cân đo . Bộ Luật Hồng Ðức ban bố vào triều vua Lê Thánh Tôn rất hoàn bị được xem như khuôn mẫu cho các luật lệ về sau này . Văn học cũng được chú trọng đặc biệt, Nho học cực thịnh. Triều đình đặt ra lệ xướng danh, khắc tên vào bia đá và cho về vinh qui bái tổ những người thi đỗ tiến sĩ để khuyến khích việc học. Rất nhiều văn tài đã xuất hiện cũng như những tác phẩm văn chương giá trị được viết trong triều đại này . Tuy nhiên, Phật giáo và Lão giáo lúc bấy giờ đang trên đà suy tàn, nhường bước cho Nho giáo đang phát triển vượt bậc.
Việc binh bị cũng được chú ý rất kỹ, các vua nhà hậu Lê nhiều lần mang quân sang chinh phạt Chiêm Thành. Trong các năm 1446, 1470 quân ta chinh phạt Chiêm Thành đánh phá đến tận kinh đô Chiêm là thành Ðồ Bàn, bắt được vua Chiêm và Cung phi đem về Thăng Long. Năm 1471 vua Lê Thánh Tôn chinh phạt Chiêm rồi cho quân ở lại giữ, sau đó đưa quân vào khai khẩn mở đồn điền lập ra đất Quảng bây giờ. Từ đó, Chiêm Thành bắt đầu suy vong mở đường tiến cho các Chúa Nguyễn vào miền Nam sau này .
Ngoài ra, năm 1479 nhà Hậu Lê còn đánh dẹp quân Ai-lao và quân Bồn Man là xứ nằm ở phía tây Nghệ An khi hai xứ này liên kết nổi lên chống lại Ðại Việt. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1504 thì nhà Hậu Lê suy dần với Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tôn, Lê Cung Hoàng... đều là những vị vua bất tài, nhu nhược, xa xỉ, tàn bạo ... Giặc giã nổi lên khắp nơi đánh phá, triều đình không dẹp được. Triều chính suy yếu, các quân chia phe cánh đánh lẫn nhau cho đến năm 1527 thì bị Mạc Ðặng Dung cướp ngôi, nhà Hậu Lê mất sau 100 năm trị vì.


NHÀ MẠC (1527-1592)

Mạc Ðặng Dung cướp ngôi nhà Hậu Lê, lên làm vua hiệu là Minh Ðức, vẫn giữ nguyên nề nếp cũ của nhà Lê chứ không sửa đổi gì cả. Tuy nhiên họ Mạc vẫn không thu phục được lòng dân còn tưởng nhớ đến nhà Lê, nên rất nhiều người nổi lên chống phá.
Trong đó có Nguyễn Kim là con Nguyễn Hoằng Dụ, một cựu thần nhà Lê năm 1532, lập con vua Lê Chiêu Tôn lên làm vua tức Lê Trang Tôn rồi bắt đầu công cuộc trùng hưng nhà Hậu Lê . Ngoài ra họ Mạc còn gánh chịu hiểm họa xâm lăng của phương Bắc. Năm 1540 Mạc Ðăng Dung phải đầu hàng, dâng đất cho nhà Minh để được bãi binh & phong chức Ðô Thống Sứ.
Sau cùng, Trịnh Tùng giúp nhà Lê trùng hưng bắt giết được Mạc Mậu Hợp năm 1592, nhà Mạc coi như mất ngôi\. Con cháu chạy lên Cao bằng nương nhờ thế lực nhà Minh một thời gian nữa rồi mất hẳn vào năm 1667.


NHÀ LÊ TRUNG HƯNG (1532-1778)

Có thể tính nhà Lê Trung Hưng bắt đầu vào năm 1532, khi Lê Trang Tôn lên ngôi. Tuy nhiên bấy giờ nhà Lê đã suy yếu lắm rồi, chỉ còn hư vị nhìn Trịnh Tùng xưng Chúa đất Bắc năm 1570, Nguyễn Hoàng làm Chúa miền Nam năm 1572 và nhà Mạc ở đất Cao Bằng mang quân đánh lẫn nhau gần nửa thế kỉ để rồi mất hẳn nghiệp vào năm 1778 ở đời vua Lê Chiêu Thống, khi 20 vạn quân Thanh bị đánh tan do sự cầu cứu của Lê Chiêu Thống.
 
           
         IV - THỜI NAM BẮC PHÂN TRANH (1572-1802)

TRỊNH NGUYỄN PHÂN TRANH:


Ngay sau khi Nguyễn Kim chết, con Nguyễn Kim là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng còn nhỏ, binh quyền về tay rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm thì mầm móng chia rẻ Trịnh-Nguyễn đã phát sinh. Về sau vì sợ Nguyễn Uông tranh quyền, Trịnh Kiểm dùng mưu giết Nguyễn Uông đi, Nguyễn Hoàng lo sợ nói với chị là Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho vào đất Thuận Hóa phía Nam năm 1558. Tuy nhiên sau đó Nguyễn Hòang vẫn bị Trịnh Kiểm và Trịnh Hùng gọi ra Bắc để kiềm chế lấy cớ là dẹp loạn, mãi cho đến năm 1572 Nguyễn Hoàng nhân một chuyến đi dẹp loạn trốn được vào Nam, từ đó có cuộc phân tranh Trịnh-Nguyễn chính thức.
Ở Bắc, các Chúa Trịnh kể từ Trịnh Tùng lo sửa sang quan chế, giảm nhẹ hình phạt, cho khai mỏ, mở cảng Phố Hiến, mở mang thương mại . Mở trường võ bị, đặt lệ thi võ, sai người viết sử lại, khắc bảng gỗ in sách vở để không mua của Trung Hoa nữa, đánh dẹp các cuộc nổi loạn... thực quyền nằm ở Phủ Chúa, các vua Lê nối tiếp nhau chỉ có hư vị.
Ở Nam, các Chúa Nguyễn kể từ Nguyễn Hoàng tổ chức việc hành chánh, đặt thuế xuất nhập cảng, mở cảng Hội An, đặt lệ thi để chọn nhân tài, mở trường đúc súng đại bác, tập bắn... Nhưng công nghiệp quan trọng nhất của các chúa Nguyễn là mở mang bờ cõi về phương Nam. Lúc vào trấn Thuận Hoá, lãnh thổ nước ta chỉ có đến Bình Ðịnh ngày nay, sau các Chúa Nguyễn lần lượt chiếm nốt đất của Chiêm Thành và thu nhận đất Thủy Chân Lạp từ tay người Chân Lạp để lập ra miền Tây Nam phần ngày nay .
Bắt đầu từ năm 1627, hai bên mang quân đánh lẫn nhau, chiến trường thường là vùng Quảng Bình, kéo dài 45 năm với 7 trận đánh không phân thắng bại cuối cùng năm 1672 mới giảng hòa chia đôi đất nước, lấy sông Gianh làm ranh giới giữa đôi bên. Hòa bình kéo dài được 100 năm, cho đến lúc anh em Tây Sơn dấy nghiệp ở đất Qui Nhơn thì chấm dứt.
Cũng trong thời gian phân tranh này, người Âu Châu bắt đầu tiếp xúc với Việt Nam ở cả đàng trong lẫn đàng ngoài trong việc buôn bán và truyền đạo Thiên Chúa. Cuối cùng hai bên suy yếu đi vì các Chúa chơi bời xa xỉ không lo việc nước, triều thần lộng quyền, lòng dân không còn phục nữa giặc cướp nổi lên đánh phá khắp nơi, để đến năm 1777 anh em Tây Sơn dứt nghiệp Chúa ở miền Nam chỉ còn cháu Chúa Nguyễn là Nguyễn Ánh chạy thoát và dứt Chúa Trịnh năm 1786 ở miền Bắc.
Ðồng thời vua Lê Chiêu Thống nhu nhược không tổ chức được triều chính khi anh em Tây Sơn ra Bắc diệt họ Trịnh xong rồi rút quân về miền Nam. Năm 1788 Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai, Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu cầu cứu nhà Thanh, họ Lê mất hẳn ngôi vào lúc đó.
Tuy nhiên, tình hình vẫn chưa ổn định được, anh em Tây Sơn bất hòa đánh lẫn nhau, quân Thanh xâm lăng nước ta, Nguyễn Phúc Ánh đánh phá miền Nam... mãi cho đến năm 1802 Gia Long mới thống nhất được đất nước.


NHÀ TÂY SƠN (1778-1802)

Anh em Tây Sơn : Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ người làng Tây Sơn tỉnh Quy Nhơn, năm 1771 dựng cờ khởi nghĩa, quy tụ được rất nhiều người bất mãn với chế độ nổi lên chống lại phía Nguyễn khi quyền thần Trương phúc Loan làm nhiều điều tàn ác, tham lam dân chúng khổ sở.
Ðầu tiên anh em Tây Sơn dùng mưu lấy Quy Nhơn, rồi chẳng bao lâu đánh chiếm luôn Phú Xuân (Huế) đuổi Chúa Nguyễn cùng cháu là Nguyễn phúc Ánh chạy vào Gia Ðịnh. Nhưng sau đó họ Trịnh từ Bắc đánh vào, Chúa Nguyễn từ Nam đánh ra, Tây Sơn ở giữa phải giả hàng Chúa Trịnh để quay vào đánh Chúa Nguyễn. Từ đó Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ dùng mưu đánh lấy đất Gia Ðịnh, Chúa Nguyễn bị bắt giết, cháu là Nguyễn phúc Ánh chạy thoát năm 1777, chấm dứt nghiệp Chúa ở miền Nam.
Năm sau, năm 1778 Nguyễn Nhạc tự xưng đế, đặt niên hiệu là Thái Ðức, lấy thành Ðồ Bàn làm kinh đô, phong tặng cho Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Nhân khi miền Bắc có loạn năm 1782, vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ đánh chiếm đất Thuận Hóa, sau đó Nguyễn Huệ ra Bắc truyền hịch phù Lê diệt Trịnh, bắt giết được Trịnh Khải năm 1786, họ Trịnh mất hẳn từ đó.
Anh em Tây Sơn rút quân về Nam, Nguyễn Huệ được vua Lê Hiển Tôn phong làm Nguyên Soái và gả con gái là Công chúa Lê Ngọc Hân. Sau đó vua Lê Hiển Tôn mất, Lê Chiêu Thống kế vị bất tài nhu nhược các tướng chuyên quyền, nên năm 1788 Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ 2 bắt giết các tướng có ý phản, vua Lê Chiêu Thống chạy trốn tìm người trung nghĩa lo khôi phục, nhưng thế lực đã suy tàn cơ nghiệp nhà Hậu Lê từ năm này coi như chấm dứt. Về sau Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh nhưng cũng không thành công.
Cũng trong thời gian đó thì anh em Tây Sơn bất hòa đánh lẫn nhau, nên năm 1788 Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị mang 20 vạn quân xâm chiếm Bắc Hà thì Nguyễn Huệ ở Phú Xuân lên ngôi hoàng đế, niên hiệu là Quang Trung rồi đem quân ra Bắc. Với những trận đánh ở Hà Hồi, Ngọc Hồi, Ðống Ða .... Hứa Thế Thành, Tôn Sĩ , Sầm Nghi Ðống... bỏ xác tại trận và 20 vạn quân Thanh bị đánh tan trong vòng 5 ngày . Tôn Sĩ Nghị chạy trốn về Tàu bỏ cả ấn tín Lê Chiêu Thống vội vã chạy theo, sống lưu vong với đám tùy tùng rồi chết ở bên đó.
Phá tan quân Thanh rồi, vua Quang Trung cải cách được nhiều việc, chuẩn bị binh lính để đánh Trung hoa, nhưng chỉ được mấy năm rồi mất sớm, truyền ngôi lại cho con là Quang Toản. Từ đó thế lực Tây Sơn suy tàn, trong khi ở miền Nam , Nguyễn-phúc-Ánh được nhiều ngươ ;øi tài giỏi giúp sức mỗi ngày mỗi mạnh lên, để đến năm 1802 thì dứt nhà Tây Sơn thống nhất đất nước sau gần 200 năm phân chia nội chiến.


        V-NHÀ NGUYỄN (1802-1945)

Lên ngôi năm 1802, Nguyễn phúc Ánh lấy hiệu là Gia Long, đóng đô ở Huế, đặt tên nước Việt Nam, tổ chức triều chính, mở trường học ở khắp nơi, tổ chức các khoa thi để chọn người làm quan, Nho học được chú trọng. Nhà Nguyễn cũng chăm lo tổ chức quân đội, đánh dẹp các cuộc nội loạn nhất là dưới thời Minh Mạng, Tự Ðức. Về luật pháp cũng được sửa đổi ít nhiều qua bộ luật Gia Long, triều đình còn khuyến khích mở mang nông nghiệp, đào kinh dẫn nước vào ruộng và tiện việc giao thông ở miềnTây Nam phần.
Nguyễn Trường Tộ là người tinh thông Nho học và được du học ở các quốc gia Tây phương. Khi về nước đã dâng lên vua Tự Ðức những bản điều trần xin cải cách canh tân xứ sở. Nhưng triều đình Huế bấy giờ chỉ là những nhà Nho thấm nhuần tư tưởng Ðông phương, bảo thủ, nghi ngờ không dám bỏ cũ theo mới . Nên trước kia trong các năm 1821,1822,1835 nhiều phái đoàn Anh, Mỹ, Pháp đến xin thông thương, buôn bán đều bị từ chối; cho nên những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ cũng chịu chung số phận, các quan lại già nua tham quyền cố vị lo sợ những người mới tranh hết quyền hành, đồng thời tình hình cũng rối ren do đó dần dần những đề nghị của Nguyễn Trường Tộ bị bỏ dở không thực hiện gì cả.


        VI - CUỘC XÂM LĂNG CỦA NGƯỜI PHÁP VÀO VIỆT NAM (1858-1884)

Cuối thế kỷ 18, người Pháp bắt đầu dòm ngó đến Việt Nam trong việc mở rộng thuộc địa . Năm 1858 Pháp bắt đầu xâm lăng Việt Nam, thì 4 năm sau, năm 1862 hòa ước Nhâm Tuất ký giữa triều đình Huế (do Phan Thanh Giản đại diện) và Pháp nhường dứt cho Pháp ba tỉnh miền Ðông Nam phần Gia-định, Ðịnh-tường, Biên-hòa mở đầu cho những hòa ước sau này dẫn đến việc Việt Nam rơi vào tay Pháp. Năm 1863, Phan Thanh Giản cầm đầu phái bộ sang Pháp điều đình chuộc đất, nhưng bất thành. Sau khi về nước, Phan Thanh Giản được cử làm Kinh-lược-sứ ba tỉnh miền Tây Nam phần Vĩnh long, An giang, và Hà tiên để lo chống việc Pháp.
Pháp đem quân đánh, Phan Thanh Giản uống thuốc độc chết, ba tỉnh thất thủ, sáu tỉnh Nam phần rơi vào tay Pháp. Chiếm xong sáu tỉnh miền Nam Pháp lăm le đất Bắc, Nguyễn Tri Phương được cử giữ thành Hà Nội, Pháp đem quân đánh Hà nội lần thứ nhất, Nguyễn Tri Phương cùng con là phò mã Nguyễn Lâm chết theo thành khi thành mất.
Trước thất bại này, triều đình phải ký với Pháp hòa ước năm Giáp Tuất (1874), nhường cho Pháp sáu tỉnh Nam Phần, đổi lại Pháp trả Hà Nội cho Việt Nam. Tuy nhiên Pháp vẫn dòm ngó đất Bắc, Hoàng Diệu được cử là Tổng Ðốc Hà nội để lo đối phó với giặc Pháp. Năm 1882 Pháp mang quân đánh Hà-nội lần thứ hai, vì có người phản bội đốt kho thuốc súng nên thành Hà-nội thất thủ, Hoàng Diệu thắt cổ chết, đất Bắc lọt vào tay Pháp lần nữa .
Giữa lúc tình thế rối ren, năm 1883 vua Tự Ðức băng hà, triều đình Huế bị xáo trộn vì Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết trong vòng mấy tháng phế lập liên tiếp các vua Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi Sau khi lên ngôi, vua Hàm Nghi cùng với Tôn Thất Thuyết và các văn thân tổ chức đánh úp Pháp ở đồn Mang Cá - gần kinh thành, nhưng không thắng được. Kinh đô Huế thất thủ, Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Bình truyền hịch Cần Vương kêu gọi các sĩ phu cùng tòan dân đứng ra cứu nước.
Triều đình Huế còn lại phải ký với chính phủ Pháp hoà ước Patenotre (1884) chấp nhập sự đô hộ của Pháp ở Bắc Kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ là đất thuộc địa. Nhà Nguyễn mất thực quyền bắt đầu vào năm này và Việt Nam rơi vào vòng đô hộ của thực dân Pháp kể từ đó.

 

10 tháng 4 2016

dài thế/

7 tháng 4 2016

Từ bao giờ đến bây giờ, ca dao tục ngữ luôn có sức đồng cảm mãnh liệt và sâu sắc. Nó ra đời giữa những vui buồn trong cuộc sống của loài người và nó sẽ kết bạn với con người cho đến ngày tận thế. Bởi từ xưa đến nay, những câu thành ngữ, ca dao, tục ngữ mà ông cha ta đã để lại cho thế hệ con cháu vẫn luôn là lời răn dạy giúp con người vươn tới cái chân, thiện, mỹ và tầm cao của giá trị sống. Trong số đó, những câu ca dao, tục ngữ nói về phẩm chất và đức hạnh luôn là thiết yếu nhất, bởi lẽ phẩn chất và đức hạnh là chuẩn mực cao nhất trong nhân cách của con người:
“Cái nết đánh chết cái đẹp” 
Trong mỗi con người đều có cái ác, cái thiện; mặt xấu và mặt đẹp. Không ai là hoàn thiện cả - “Nhân vô thập toàn”. Có người cho rằng: “Cái nết đánh chết cái đẹp”. Nhưng câu nói ấy chỉ mang tính tương đối mà không hoàn toàn đúng. Một người có cái nết là một người lúc nào cũng hướng về người khác, có hành vi tốt và có đạo đức đẹp (theo quan niệm của Phật giáo). Còn đối với “cái đẹp” ta có thể hiểu rằng “cái đẹp” là hình thức, diện mạo bên ngoài; một người sẽ được cho là đẹp khi những đường nét của người ấy đạt đến sự tối cao của cái được gọi là “sắc đẹp hoàn hảo”.
Cũng như câu nói của Bác: “Người có tài mà không có đức là người vô dụng, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” thì “Cái nết đánh chết cái đẹp” cũng vậy! Người có nết nhưng không đẹp sẽ là người không được ưa nhìn nhưng luôn được mọi người yêu quý bởi cái nết của mình. Ngược lại, người được tạo hóa ưu ái phú cho nhan sắc kiều diễm nhưng lại không có nết cả bên ngoài lẫn bên trong tâm thức, thì con người này sẽ luôn là tâm điểm của mọi sự chú ý và cứ như thế họ sẽ chẳng đoái hoài gì đến cái nết – một trong những phẩm chất thiết yếu của con người. Với con người như vậy thì hẳn rằng ngoài sự chú ý của ...người khác đối với mình vì sắc đẹp vốn có của bản thân họ sẽ chẳng nhận được gì cả vì đã tự đánh mất cái nết vốn có của mình.
Theo quan niệm của phương Đông: “Nhân chi sơ tính bổn thiện” – con người từ khi sinh ra thì ai cũng có cái thiện ở trong tâm. Nhưng cái thiện đso có được phát huy trọn vẹn hay không thì còn phụ thuộc vào quá trình tôi rèn nhân phẩm của mỗi chúng ta. Tạo hóa đã tạo ra con người không thập toàn để con người đi theo hai trường phái đối lập: có nết và chẳng ưa nhìn; có sắc và luôn lúng sâu vào những hoa mĩ về ngoài. Nhưng con người vẫn có thể bừng tỉnh khỏi những “hố sâu không đáy” và vươn lên với chính bản thân mình để hướng ý thức, đạo đức của mình vươn tới chân, thiện, mỹ.
Một người có nết và biết làm đẹp cho bản thân của mình thì sẽ là người hoàn hảo, bởi trên đời này, không có người nào là xấu, mà chỉ có người không biết làm đẹp. cũng như thế, một người đã có sẵn ưu thế về sắc đẹp thì chỉ cần bỏ thời gian ra và rèn luyện lại cái nết của mình một cách tự giác thì cũng sẽ trở thành một người thập toàn, thập mĩ và nhận được sự quý mến của nhiều người.
“Cái nết đánh chết cái đẹp” Câu nói như có vẻ mang tính khẳng định nhưng lại không hẳn là như vậy. Dường như nó chỉ đúng về một phương diện, khía cạnh nào đó. Nhưng nếu xét tổng thể thì có vẻ như câu nói ấy đã bị sai lệch về mặt bản chất. Mỗi con người đều có mặt tốt và mặt xấu ở trong lòng. Vậy ta phải biết làm cho phần tốt nảy nở như hoa mùa xuân và phẩn xấu bị mất dần đi.

7 tháng 4 2016

Trong cuộc sống hàng ngày,để đánh giá một đồ vật,một con người đạt mức độ chính xác,chúng ta nên dựa trên nguyên tắc hay cách thức nào ? Đây cũng là vấn đề xưa nay được nhiều người quan tâm. Cha ông cũng từng có ý kiến hướng dẫn việc ấy trong câu tục ngữ :“Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”.Ta nên hiểu câu này như thế nào và đánh giá nó ra sao ? Phải chăng đây chính là kinh nghiệm quý báu màông cha của chúng ta từ nghìn xưa đã để lại cho con cháu suy ngẫm và học hỏi.Câu tục ngữ dùng hai sự vật “gỗ” và “nước sơn” để làm một phép so sánh.”Gỗ” là chất liệu để làm đồ dùng như tủ,giường,bàn,ghế…Còn “nước sơn” là chất liệu để quét lên lớp bên ngoài cho các đồ dùng ấy thêm đẹp thêm bền.Nhiều người chỉ chú ý đến lớp nước sơn bóng nhoáng bề ngoài mà đã mua phải một đồ dùng bằng gỗ xấu hoặc gỗ mọt.Ông cha ta với kinh nghiệm sống của mình đã kết luận là : “Tốt gỗ hơntốt nước sơn”.Đó là hiểu theo nghĩa đen.Còn nghĩa bóng của câu tục ngữ thì rộng hơn rất nhiều.Nó bao hàm một lời khuyên về cách nhìn nhận,đánh giá một sự vật,một con người đừng nên để cái vỏ hình thức hào nhoáng bên ngoài mê hoặc mà phải coi trọng cái thực chất bên trong.Ngoài ra,câu này còn bao hàm một lời khuyên về cách sống;hãy sống chân thật bằng thực chất của mình,chân thành trong cách đối nhân xử thế,đừng ba hoa,khoác lác lòe đời bằng cái vỏ hình thức giả tạo,”chớ khéo đem cái mã bề ngoài để che đậy cái sơ sài bên trong”.Như mọi câu tục ngữ khác,câu tục ngữ này cũng là đúc rút kinh nghiệm của cha ông chúng ta,trải qua biếtbao thế hệ,với bao thành bại,nên hư,vấp váp mới đúc rút thành chân lí: ”Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”.Khi nhìn nhận đánh giá một sự vật,ta phải thấy rằng giữa hình thức bên ngoài và nội dung bên trong,không phải lúc nào cũng thống nhất mà thông thường thì những sự vật có thực chất kém cỏi lạ thường một hình thức lôi cuốn hấp dẫn.Một vật dụng như chiếc tủ,chiếc giường,chiếc bàn bằng gỗ tạp lại được sơn phết,tô điểm với nước sơn bóng nhoáng,màu mè.Mỗi kẻ vô tài thường làm ra vẻ lịch duyệt,hiểu biết.Những kẻ “miệng nam mô bụng một bồ dao găm” vẫn tồn tại phổ biến trong xã hội.Do đó,trong tiếp xúc thường ngày với mọi sự vật,mọi con người phải chú trọng vào chất lượng bên trong của sự vật,vào vẻ đẹp tâm hồn của con người chớ đừng vì bóng sắc hấp dẫn bên ngoài mà quên đi cái mục ruỗng,thối nát,xấu xa và vô vị bên trong.Bởi vì nghĩ cho kĩ,suy cho cùng,nếu chân giá trị của vật dụng là chất gốc thì chân giá trị của con người chính là đạo đức tài năng và trí tuệ.Nhưng cũng không thể chỉ xem trọng nội dung mà lãng quên đi mặt hình thức.Một vật dụng,một món hàng đã có chất lượng tốt,gỗ tốt gỗ quý lại có bao bì,hay nước sơn xinh xắn tô điểm,trang trí đẹp đẽ thì giá trị vật dụng ấy,món hàng ấy càng được nâng thêm.Hình thức bên ngoài như thế đã góp phần làm tăng thêm cho giá trị bên trong.Một cái tủ,một chiếc bàn làm bằng gỗ đỏ hay bằng lăng mà lại còn được sơn bóng nhoáng hẳn sẽ vừa ý vừa lòng người mua.Một con người cũng vậy,có học vấn,đạo đức lại nói năng lịch sự thanh nhã,ăn mặc gọn gàng,sạch đẹp dễ làm ta thêm quý trọng hơn hẳn người tuy cũng có tài năng,đạo đức nhưng ăn nói thô lỗ,cộc cằn,áo quần xốc xếch.Đúng là cái đẹp lí tưởng phải là hài hòa giữa nội dung và hình thức.Vậy để đánh giá và nhận xét một vật dụng,một con người,chúng ta dựa trên cơ sở cả nội dung lẫn hình thức.Hai mặt này kết hợp và bổ sung cho nhau làm nên giá trị của vật dụng ấy,con người ấy,trong đó nội dung giữ vai trò quyết định.Khi đánh giá,ta cần coi trọng chất lượng của sự vật cũng như đạo đức,tài năngtrí tuệ của con người.Tóm lại,”tốt gỗ hơn tốt nước sơn” không những chỉ giúp ta một phương châm đúng đắn trong việc nhìn nhận,đánh giá,chọn lọc ở đời mà còn giúp ta một phương châm trong cách đối nhân xử thế.Không nêndựa dẫm vào cái hình thức bề ngoài vay mượn,không phải của mình để vênh vang tự phụ với mọi người rồi không chịu tu dưỡng rèn luyện.Cũng đừng nên quá chú trọng hình thức bên ngoài,trang điểm mặt này,chưng diện quần áo mà quên đi cái chân giá trị của con người là đạo đức,trí tuệ và tài năng.Bài học mà câu tục ngữ này dạy ta thật là đúng đắn và sâu sắc

28 tháng 2 2016

Bán đảo Ả Rập

28 tháng 2 2016

lớp mấy

 Đặc điểm các đới khí hậu chính trên TĐ :

+) Đới nóng :

- Lượng nhiệt hấp thụ được nhiều nên quanh năm nóng. Mùa đông chỉ là lúc nhiệt độ giảm đi chút ít, so với các màu khác. Gió thường xuyên là gió Tín phong. Lượng mưa TB năm đạt từ 1000mm đến trên 2000mm.

+) Đới ôn hòa :

- Là khu vực có lượng nhiệt trung bình. Các mùa thể hiện rất rõ trong năm. Gió thường xuyên là gió Tây ôn đới. Lượng mưa TB năm dao động từ 500mm đến trên 1000mm.

+) Đới lạnh :

- Là khu vực giá lạnh, có băng tuyết hâu như quanh năm. Gió thường xuyên là Đông cực. Lượng mưa TB năm thường dưới 500mm.

 

12 tháng 4 2016

Các bạn nam nói với nhau rằng: mỗi chúng ta có số bạn nam bằng số bạn nữ. Tức là Số bạn nam – 1 = số bạn nữ (1)

   Còn các bạn nữ nói với nhau rằng: mỗi chúng ta có số bạn nam gấp đôi số bạn nữ. Tức là: Số bạn nữ - 1 = ½ số bạn nam, hay là Số bạn nữ = ½ số bạn nam + 1  (2)

   Từ (1) và (2) Ta vẽ sơ đồ

     Số bạn nữ : (1 phần+1 bạn)

      Số bạn nam : (=phần số bạn nữ+1 bạn)

  Từ sơ đồ ta thấy rõ : ½ số bạn nam là : 1+1=2 (bạn)

                                      số bạn nam là: 2x2=4(bạn)

                                      số bạn nữ là : 4-1=3 (bạn)

                                                  ĐS : nam : 4 bạn

                                                           Nữ : 3 bạn

13 tháng 4 2016

cái này trên olm mò...

27 tháng 2 2017


Ôi chao! Mùa xuân đến rồi! (Câu cảm). Mùa xuân là mùa của muôn hoa nở rộ, chúng ta đã thêm đc 1 tuổi xuân (Câu trần thuật). Trong chúng ta ai cũng thích mùa xuân có đúng ko? (Câu nghi vấn)
Mùa xuân, 1 năm mới đã đến, chúng ta quên hết những thứ ko tốt của năm trc và chuẩn bị những thứ mới cho năm nay, ai cũng chúc nhau những lời hay ý đẹp, ko ai lại làm điều xấu trong dịp này (Câu phủ định). Vậy chúng ta hãy cùng nhau chào đón 1 mùa xuân ấm áp nhé! (Câu cầu khiến)...

27 tháng 2 2017

cũng hay đấy chứ

23 tháng 4 2016

''2 mặt trời, mặt trời bằng đầu'' có nghĩa là 2 ''chữ nhật'' đứng = nhau=>ráp lại

''4 trái núi, trái núi đảo điên'' có nghĩa là 4 chữ ''sơn'' đứng nghiêng ngả=>ráp lại

''2 ông vua tranh nhau 1 nc'' có nghĩa là 2 chữ ''vương'' đứng chéo nhau=>ráp lại

''4 cái miệng trong khoảng dọc ngang có nghĩa là 4 chữ ''khẩu'' đứng dọc ngang=>ráp lại

*Lưu ý: các chữ trên như chữ

chữ nhật

sơn

vương 

khẩu

đều viết = chữ Hán, sau khi ráp 4 chữ trên kia lại thì cả 4 chữ đều ra chữ ''điền'' (ruộng)

Câu này mk cx hok bít giải thik thế nào cho rõ nữagianroigianroigianroi, thông cảm nhaok

23 tháng 4 2016

chữ ''ruộng'' (điền)