Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
KHỞI NGHĨA MAI THÚC LOAN
* Nguyên nhân: - Do chính sách bóc lột nặng nề của nhà Đường.
*Diễn biến: Năm 722 khởi nghĩa bùng nổ, nghĩa quân nhanh chóng chiếm được Hoan Châu, nhân dân ái Châu, Diễm Châu hưởng ứng, Mai Thúc Loan xây dựng căn cứ ở Sa Nam ( Nghệ An) và xưng đế gọi là Mai Hắc Đế. Mai Hắc Đế liên kết với nhân dân khắp Giao Châu và Chăm Pa tấn công thành Tống Bình và giành thắng lợi. - Giặc: Sau đó nhà Đường cử 10 vạn quân sang đàn áp . * Kết quả: Mai Hắc Đế thua trận
KHỞI NGĨA PHÙNG HƯNG
* Nguyên nhân: - Do chính sách bóc lột nặng nề của nhà Đường.
* Diễn biến: Khoảng năm 776 anh em Phùng Hưng đã nổi dậy khởi nghĩa ở Đường Lâm (Ba Vì Hà Tây), được nhân dân hưởng ứng và giành quyền làm chủ vùng đất của mình. - Sau đó Phùng Hưng kéo quân về bao vây phủ Tống Bình và đã chiếm được thành. - Phùng Hưng mất, con trai là Phùng An nối nghiệp cha. - Năm 791 nhà Đường sang đàn áp, Phùng Hưng ra hàng.
* Kết quả: giành quyền làm chủ trong 9 năm.
- Khởi nghĩa Mai Thúc Loan :
+ Diễn biến :
Đến thế kỉ 8 , khởi nghĩa bùng nổ ở Hoan Châu . Nhân dân Ái Châu , Diễm Châu nổi dậy hưởng ứng .
Mai Thúc Loan xưng đế ( Mai Hắc Đế ) , chọn Sa Nam ( Nam Đàn ) xây dựng căn cứ .
Mai Hắc Đế liên kết với nhân dân Giao Châu và Cham - pa tấn công Tống Bình . Viên đô hộ quân Sở Khách chạy về Trung Quốc
Năm 722 , nhà Đường cử 10 vạn quân sang đàn áp ,
+ Kết quả : Cuộc khởi nghĩa thất bại.
- Khởi nghĩa Phùng Hưng :
+ Diễn Biến :
Khoảng năm 776 , Phùng Hưng cùng em là Phùng Hải khởi nghĩa ở Đường Lâm , được nhân dân ủng hộ .
Nghĩa quân tiến về bao vây và chiếm được thành Tống Bình , sắp đặt việc cai trị .
Phùng Hưng mất , con là Phùng An nối nghiệp cha .
Năm 791 , nhà Đường đem quân sang đàn áp , Phùng An ra hàng .
- Kết quả : Cuộc khởi nghĩa thất bại.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
nhớ tick nha
Những cuộc khởi nghĩa lớn trong thời Bắc thuộc:
- Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40).
- Khởi nghĩa Bà Triệu (năm 248).
- Khởi nghĩa Lý Bí (năm 542).
- Triệu Quang Phục giành độc lập (năm 550).
- Khởi nghĩa Mai Thúc Loan (năm 722).
- Khởi nghĩa Phùng Hưng (năm 776 - 794).
- Khởi nghĩa Khúc Thừa Dụ (năm 905).
- Cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược Nam Hán lần thứ nhất (năm 930 - 931) của Dương Đình Nghệ.
- Kháng chiến chống quân Nam Hán lần thứ hai và chiến thắng Bạch Đằng (năm 938) của Ngô Quyền.
* Ý nghĩa lịch sử của các cuộc khởi nghĩa trên là:
- Những cuộc kháng chiến tiêu biểu này đã nói lên tinh thần yêu nước, ý chí quật cường của cha ông trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược các triều đại phong kiến phương Bắc.
- Thể hiện quyết tâm giành chủ quyền dân tộc và kết thúc bằng chiến thắng Bạch Đằng (năm 938) đã khẳng định nền độc lập hoàn toàn của dân tộc.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Câu 19: Những cuộc khởi nghĩa lớn trong các thế kỉ VII – IX:
A. Khởi nghĩa Mai Thúc Loan, khởi nghĩa Phùng Hưng
B. Khởi nghĩa Mai Thúc Loan, khởi nghĩa Bà Triệu
C. Khởi nghĩa Phùng Hưng, khởi nghĩa Hai Bà Trưng
D. Khởi Nghĩa Lý Bí, khởi nghĩa Phùng Hưng
Câu 19: Những cuộc khởi nghĩa lớn trong các thế kỉ VII – IX:
A. Khởi nghĩa Mai Thúc Loan, khởi nghĩa Phùng Hưng
B. Khởi nghĩa Mai Thúc Loan, khởi nghĩa Bà Triệu
C. Khởi nghĩa Phùng Hưng, khởi nghĩa Hai Bà Trưng
D. Khởi Nghĩa Lý Bí, khởi nghĩa Phùng Hưng
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
diễn biến
Giai đoạn nửa sau thế kỉ VIII, quyền thống trị của nhà Đường càng suy yếu, bên trong liên tiếp nảy ra các cuộc xung đột. Tại thời điểm lúc đó, tại khu đô hộ thì bọn chúng tăng cường áp lực, bóc lột người dân để tăng đều thêm sức lực và tiền của. Bọn chúng tăng nhanh trưng thu các loại thuế các loại, mặc người dân đói khổ, lầm than khắp nơi.
Cao Chính Bình vượt qua được Chà Và và được cử giữ chức vụ An Nam, ra sức bóc lột nhân dân ta, tập trung làm giàu cho chính bản thân mình và quân tay sai. Nhân dân ta chịu nhiều ách trấn áp, nghèo khổ, không có ánh sáng cho ngày mai. Vì thế vô cùng căm phẫn quân đô hộ và trách phận.
Đứng trước tình hình cuộc sống nhân dân quá lầm than, không chịu được sự hống hách và tàn bạo của quan lại nhà Đường, Phùng Hưng đã đứng lên lãnh đạo nhân dân nổi dậy. Nhân lúc quân lính ở Tống Bình nổi loạn năm 791, ông đã phát động quân dân nổi lên khởi nghĩa Phùng Hưng chống chính quyền trực thuộc đô hộ và tay sai cho nhà Đường.
Lực lượng của tướng Phùng Hưng chia làm 5 đạo quân vây quanh thành, đánh từ ngoài vào trong. Quân của Cao Chính Bình khoảng tầm hơn 4 vạn binh lính ra sức chống cự nhưng vẫn yếu thế hơn. Với tinh thần quyết chiến quyết thắng, quân dân ta chiến đấu liên tục trong 7 ngày ròng rã.
Thương vong không ít nhưng cuối cùng quân dân ta vẫn khiến cho Cao Chính Bình lo lắng cố thủ mà lăn ra ốm rồi chết. Khởi nghĩa Phùng Hưng giành chiến thắng vẻ vang, chiếm hữu được thành và lập cai trị mới. Mang lại bình yên và cuộc sống no đủ, không còn đói khổ cho tất cả những người dân
ý nghĩa
Cuộc khởi nghĩa Phùng Hưng nổ ra vào năm 791 và giành được thắng lợi vẻ vang cho dân tộc bản địa. Khiến cho bọn đô hộ nhà Đường phải dè chừng về sức mạnh mẽ của người dân ta. Trong thời gian sau đó, người dân yên tâm sinh sống, thao tác.
Dân ta thoát khỏi ách thống trị, đàn áp của bọn tay sai, khắp nơi ăn mừng chiến thắng. Khởi nghĩa Phùng Hưng thắng lợi, thủ lĩnh đóng quân chiếm lĩnh phủ đô hộ, cai quản các vùng đất được 7 năm thì lâm bệnh rồi mất. Sau lúc ông mất, con trai Phùng An lên nối nghiệp cha, dâng tôn hiệu của cha là Bố Cái Đại Vương.
Tuy nhiên, Phùng An lại không được anh dũng như cha nên giữ quyền lãnh đạo, trị vì được hai năm thì chính quyền trực thuộc lại rơi vào tay giặt. Quân nhà Đường lại liên tục tấn công thành, cuối cùng cũng khiến quân đội Phùng An đầu hàng. Nhà Đường từ đó chính thức lại quay về xâm chiếm nước ta.
Cuộc khởi nghĩa Phùng Hưng đã thất bại, không giành được thắng lợi
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
- Cuộc khởi nghĩa Phùng Hưng đã giành lại được quyền làm chủ đất nước (tuy chỉ trong một thời gian. Năm 791, nhà Đường lại đem quân dàn áp, Phùng An nối nghiệp cha không đỡ nổi đã đầu hàng giặc).
- Tuy khởi nghĩa chỉ giành thắng lợi một thời gian nhưng thể hiện lòng yêu nước, ý chí quật cường của các tầng lớp nhân dân kiên quyết đứng dậy giành chủ quyền dân tộc, lật đổ ách thống trị tàn bạo của nhà Đường.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
*Khởi nghĩa Lý Bí:
⇒ Thời gian: Năm 542
⇒ Địa điểm: Thái Bình
⇒ Kết quả:
- Giành thắng lợi.
- Lý Bí lên ngôi hoàng đế (năm 544).
- Đặt tên nước là Vạn Xuân, dựng kinh đô ở vùng sông Tô Lịch, lập triều đình với hai ban văn võ.
⇒ Ý nghĩa: Cuộc khởi nghĩa Lý Bí cho ta thấy được lòng yêu nước, sự quyết tâm giành lại độc lập, tự do của đất nước ta trong lòng mỗi người dân. Đồng thời khi Lý Bí lên ngôi hoàng đế còn cho thấy rằng nước ta đã là một nước độc lập, có dân, có vua và có hạnh phúc, ấm no.
*Khởi nghĩa Hai Bà Trưng:
⇒ Thời gian: Mùa xuân năm 40.
⇒ Địa điểm: Hát Môn (Hà Nội)
⇒ Kết quả: Kết quả cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là mang lại 3 năm độc lập cho người Việt tại vùng đất Giao Chỉ. Chế độ cai trị hà khắc của chính quyền nhà Hán ở phương Bắc: Sự áp bức, bóc lột, chèn ép nhân dân cùng với các chính sách đồng hóa người Việt tại Giao Chỉ.
⇒ Ý nghĩa:
- Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40 đã khôi phục được nền độc lập của dân tộc, mở ra một trang mới trong lịch sử.
- Trong và sau thời gian diễn ra cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng đã cho thấy được tinh thần yêu nước, ý chí quyết đấu, quyết thắng của nhân dân trong việc giành lại độc lập chủ quyền của đất nước.
- Khẳng định vai trò của người phụ nữ Việt Nam, mạnh mẽ – kiên cường.
thank you vì bạn là ng đầu tiên trả lời nên mình sẽ tick!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Đình làng Phú Chử - thờ Bố Cái đại vương Phùng Hưng.
Phùng Hưng quê làng Đường Lâm, huyện Ba Vì, xưa thuộc Sơn Tây, nay thuộc Thành phố Hà Nội, là lãnh tụ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống ách thống trị của nhà Đường (Trung Quốc), làm chủ Tống Bình (Hà Nội) trong khoảng thời gian từ năm 791 - 803. Xưa nay khi nói về cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng, sử sách chỉ ghi về việc ông tập hợp quân nghĩa trong vùng đánh chiếm rồi làm chủ Tống Bình, không nói đến ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa ấy với toàn cõi Giao Châu. Truyền thuyết và tư liệu lịch sử ở Thái Bình khẳng định Bố Cái đại vương Phùng Hưng đã lập đồn binh, lấy vợ người Thái Bình. Ông không chỉ làm chủ Tống Bình mà làm chủ cả Giao Châu, làm chủ cả An Nam khi ấy.
Thời nước ta thuộc nhà Đường, dân ta phải đóng góp thuế khóa, phu phen tạp dịch nặng nề. Năm 791, Phùng Hưng dấy quân từ Đường Lâm (Sơn Tây) đánh thành Tống Bình, Đô úy Cao Chính Bình sợ, phát ốm mà chết. Phùng Hưng và Phùng Hải vào thành tự quản lý các châu huyện. Bấy giờ người Chà Và, Côn Lôn vẫn vào cướp phá ven vùng Chu Diên, đích thân Phùng Hưng đã về đánh giặc, xây đồn ở làng Roi (Phú Chử, xã Việt Hùng, huyện Vũ Thư) để giữ vùng hạ lưu, trấn giữ Tống Bình, rồi cử Phùng Lã Tu ở lại giữ đồn. Theo khảo tả của các cụ cao niên, thành đồn có hình vuông mỗi chiều rộng khoảng 200m, đế rộng độ 4m, cao độ 3m, khu đất thành đồn rộng đến trên 10 mẫu Bắc Bộ. Các triều sau đều coi là đất cấm, đến trước năm 1945 thành đồn vẫn còn cao độ 1,2 - 1,5m, dấu tích ấy còn mãi đến thập kỷ 60, thế kỷ XX mới bị san thành ruộng.
Thành đồn của Phùng Hưng được xây dựng gần cửa Tuần Vường (cửa Vàng) nơi ngã ba Đại Hoàng giang (sông Hồng) mở chi lưu Tiểu Hoàng giang (sông Trà Lý). Đây là cửa ngõ quan trọng để vào Long Biên, Tống Bình, Đại La ngày ấy và sau này là Thăng Long. Nơi đây sóng cao ngàn tầm, dân gian đã ví:
“Một trăm cửa bể phải nể cửa Vàng (Vường)”.
Phùng Hưng mất, con là Phùng An không giữ được nghiệp của cha, bị Đô hộ Triệu Xương vây hãm phải đầu hàng. Phùng Lã Tu cố giữ cửa Vàng và hy sinh.
Tư liệu Hán Nôm hiện lưu giữ ở làng Lộc Điền, làng Phú Chử (xã Việt Hùng, huyện Vũ Thư) viết: “Khi Phùng Hưng sinh ra là một người mặt vuông, tai to, thân đỏ như son, bụng có vân mây, lại có chữ “Bố Cái đại vương thiên thần, tế thế an dân”. Trong lúc ngài sinh, tự nhiên thấy mây vàng từ trên trời bay xuống, hoàng quang sáng chói cả sản phòng. Hôm ấy là ngày mùng 10 tháng Giêng năm Bính Ngọ. Một trăm ngày sau khi sinh, ngài đã nói năng rõ ràng. Bá Công (cha ông) liền đặt tên cho ngài là Hưng. Ngài chưa học mà đã biết chữ. Năm 16 tuổi, ngài cao lớn, khỏe mạnh, một tay xách nổi trăm cân, từng nắm sừng đẩy được hai con trâu mộng đang húc nhau, dùng búa sắt giết hổ; lại mưu trí, bản tính hào hiệp, quảng đại, thường giúp đỡ người nghèo hèn yếu. Khi ấy nước ta bị người Tầu cai trị, chúng làm mưa, làm gió, hà hiếp bóc lột nhân dân… Ngài đã hô hào nhân dân đứng lên khởi nghĩa, người theo về có đến hàng vạn, quân tiến như chẻ tre, phá hủy các trận thế của giặc, giải phóng thành Long Biên, ngài lên làm vua, xưng là Bố Cái đại vương.
Một hôm ngài đi đến phủ Kiến Xương, huyện Thư Trì, làng Lộc Điền, nhân dân mang trâu bò, gà, lợn làm lễ đón. Ngài bèn cho quân dừng lại ba bốn ngày, vào thăm hỏi dân chúng. Thôn Lộc Điền lúc ấy có một nhà khá giả, họ Nguyễn, tên Thành, vợ họ Lê, thường gọi Hoan Nương, nhà họ Nguyễn có hai người con gái là Hồng Loan Nương và Nhị Nương. Lúc ngài Hưng gặp hai nàng, tưởng như lạc vào cõi tiên nga. Ngài hỏi thăm dân chúng, sau vào nhà họ Nguyễn xin hỏi làm vợ. Ngài lập bà chị làm Hoàng hậu, người em làm Phi. Ngài lại cho quân sĩ cùng nhân dân xây một hành cung, lưng quay về phía Bắc, mặt quay về phía Nam, để hai bà ở đó rồi ngài đem quân về triều...”.
Trong thời gian làm vua, Phùng Hưng đã ban phát ân uy cho vùng Thư Trì, Chu Diên, sau ngày vương mất, dân các làng Phú Chử, Lộc Điền thụ ân lớn, đều lập đền thờ ông và thờ cả Phùng Lã Tu (xưa làng Lộc Điền và làng Phú Chử có 3 đình, 3 miếu, nay còn 2 đình, 3 miếu; làng An Để, xã Hiệp Hòa có miếu Hoa Quán thờ ông).
Về Hoàng hậu Hồng Loan Nương và Cung phi Nhị Nương được thờ ở đình, miếu làng Lộc Điền, các triều đều có sắc phong thần. Hiện nay làng Lộc Điền còn giữ được 13 đạo sắc của các triều Lê, Nguyễn ghi nhận: “Đại vương và Thái hậu hai cung” là người đức hạnh, đẹp đẽ, cẩn thận, có khí tiết là bậc mẫu nghi sáng suốt thuần khiết, thường hiển hiện linh thiêng bảo vệ người đời, bà là bậc uy nghi, đẹp đẽ, đoan chính hiền lương, khoan hòa giúp đỡ dân... Thái hậu hai cung là sự hợp lại của hai khí âm dương, nghìn thu sáng láng, lưu lại lâu dài, tiếng thơm để lại nghi ngút khói hương, công lớn như trời cao biển rộng”.
Đất đai Thái Bình do phù sa bồi lắng, rất màu mỡ, gần hai mươi thế kỷ từ đầu Công nguyên đến đầu thế kỷ XIX, Thái Bình luôn là miền hội cư của nhiều luồng dân cư. Thái Bình lại là vùng đất bị giới hạn bởi ba mặt sông, một mặt biển, trong đồng thì sông ngòi chằng chịt. Vị trí ấy xưa có tầm chiến lược rất quan trọng, nhiều thủ lĩnh khởi nghĩa chống xâm lược, chống phong kiến đã lấy Thái Bình làm nơi tụ binh, dấy nghĩa. Các sông lớn ở Thái Bình cũng là cửa ngõ từ biển vào kinh đô và từ kinh đô đi ra biển. Vị trí chiến lược ấy không chỉ thuận tiện cho người Việt mà kẻ thù xâm lược cũng từ ngoài biển cũng tiến quân theo đường này vào nước ta.
Thời Hai Bà Trưng khởi nghĩa năm 40 đầu Công nguyên, Thái Bình có hơn 30 thủ lĩnh đã lãnh đạo nhân dân hưởng ứng, nay đền thờ các tướng súy ấy đều nằm ven các sông Hồng, sông Luộc, sông Trà Lý và một số sông nội đồng. Thế kỷ thứ VI, Lý Bí đã lấy vùng sông nước, đầm lầy Thái Bình để tụ nghĩa chống lại nhà Lương, Thái Bình hiện còn trên 60 đền thờ Lý Bí, Hoàng hậu và các tướng súy của vua. Sử sách xưa đã từng ghi vùng đất Thái Bình vốn “dân đông, thóc nhiều” (dân đông để bổ sung vào quân lính, thóc nhiều để nuôi quân), lại có vị trí chiến lược quan trọng nên Thái Bình luôn là “đất tụ nghĩa, đất dấy nghĩa” chống xâm lược, chống áp bức. Phùng Hưng không xây dựng căn cứ khởi nghĩa ở Thái Bình nhưng để giữ Tống Bình, giữ Giao Châu, Phùng Hưng đã dựng thành đồn, đóng quân ở Thái Bình, lấy vợ người Thái Bình. Những tư liệu trên khẳng định phạm vi rộng của cuộc khởi nghĩa do Phùng Hưng lãnh đạo. Sau ngày ông mất, dân làng Phú Chử, Lộc Điền lập đền thờ, tôn ông là thành hoàng. Đền thờ ông xưa được dựng ở ngoài đê, năm Thành Thái thứ 10 (1897) dân làng Phú Chử đã xây dựng đình vào phía trong đê, đình ấy nay vẫn còn, vẫn được tu bổ, tôn tạo, giữ gìn sạch đẹp.
Hàng năm vào ngày 10/11, nhân dân làng Phú Chử tổ chức lễ hội để tưởng nhớ về Bố Cái đại vương Phùng Hưng và tướng Phùng Lã Tu. Những năm được mùa “Phong đăng hòa cốc” lễ hội thường diễn ra trong ba ngày (10 - 12). Phần lễ có rước kiệu quanh làng, sau về đình tế lễ, lễ vật gồm có xôi, gà, thủ lợn, hoa quả... Phần hội có hát ca trù, diễn chèo, thi vật, đi cầu kiều, bắt vịt... Ngày hội dân làng tham gia rất đông. Ngày nay, dân thường tế lễ dâng hương trong một ngày.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Từ năm 766 đến 791, Phùng Hưng là hào trưởng đất Đường Lâm (xã Cao Lâm, Ba Vì, Hà Tây) đã phát động cuộc khởi nghĩa lớn chống chính quyền đô hộ triều nhà Đường. Ba anh em Phùng Hưng, Phùng Hải, Phùng Dĩnh lãnh đạo nghĩa quân nổi dậy làm chủ Đường Lâm và đánh chiếm một vùng đất rộng lớn, xây dựng thành căn cứ đánh, giặc. Cuộc khởi nghĩa kéo dài 20 năm, có thời gian đã chiếm được thành Tống Bình (Hà Nội). Ông được tôn là Bố Cái Đại Vương.
- Năm 776, Phùng Hưng cùng với em là Phùng Hải dựng cờ khởi nghĩa ở Đường Lâm (Ba Vì-Hà Tây).
- Phùng Hưng bao vây Tống Bình, sau đó chiếm được Tống Bình.
- Sau khi Phùng Hưng mất, con là Phùng An lên thay.
- Năm 791, nhà Đường đưa quân đàn áp, Phùng An đầu hàng.
![](https://rs.olm.vn/images/avt/0.png?1311)
Có nhiều bạn hay trả lời nhầm câu hỏi của mik vì các bạn tưởng nhầm là nguyên nhân gây ra cuộc nổi loạn. Mik hỏi là nguyên nhân thắng lợi cơ !!!!!
Kết quả:
- Phùng Hưng chiếm được thành, sắp đặt việc cai trị.
- Phùng Hưng mất, Phùng An lên nối nghiệp cha. Năm 791, nhà Đường đem quân sang đàn áp, Phùng An ra hàng.
Cuộc khởi nghĩa đã giành lại được quyền tự chủ cho đất nước trong 25 năm (776-791)