Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
tham khảo
Có lẽ, những bí ẩn về thiên nhiên vẫn là một câu hỏi lớn đối với con người thời cổ. Chính vì vậy, họ đã sáng tạo nên các câu chuyện để trả lời cho những thắc mắc của bản thân. Đọc truyện "Thần Trụ trời", ta thấy được cách phân chia bầu trời và mặt đất. Đọc "Prô-mê-tê và loài người", ta được giải đáp về cách các vị thần tạo ra muôn vật và loài người. Không giống hai tác phẩm trên, truyện "Đi san mặt đất" lại là những lí giải đơn giản về quá trình loài người chung lòng, góp sức san phẳng mặt đất để làm ăn mà không có sự xuất hiện của các vị thần. Truyện gây ấn tượng bởi những đặc sắc trong chủ đề và hình thức nghệ thuật.
Truyện "Đi san mặt đất" có chủ đề viết về quá trình khai hoang và cải tạo tự nhiên của người Lô lô xưa, quá trình này cần có sự giúp sức của tất cả mọi người lúc bấy giờ. Người Lô Lô xưa đã có những nhận thức khá nguyên sơ, đơn giả về thế giới vũ trụ, đồng thời họ cũng có ý thức trong việc cải tạo thế giới sống quanh mình Khi Trái Đất vẫn còn hoang sơ thì người xưa đã cùng nhau đi trình khai hoang và cải tạo tự nhiên. Đó là thời gian không thể xác định, mà người cổ xưa chỉ biết là:
"Ngày xưa, từ rất xưa...
Người già không nhớ nổi
Mấy năm mấy nghìn đời
Ngày xưa từ rất xưa...
Người trẻ không biết tới
Mấy nghìn, mấy vạn năm"
Mốc thời gian không cụ thể khiến chúng ta không thể biết chính xác đó là thời điểm nào. Khoảng thời gian ấy xưa đến mức người già cũng không thể nhớ nổi, người trẻ thì lại chẳng thể biết tới. Và cuộc sống con người lúc bấy lại thật đơn giản. Trước khi đi san mặt đất, con người vẫn sống chung, ở chung và ăn chung với nhau. Người Lô Lô xưa đã biết tận dụng điều kiện tự nhiên để trồng bắp, lấy nước uống từ "bụng đá" "Trồng bắp trên núi cao/ Uống nước từ bụng đá". Tuy nhiên, sống trong không gian hoang sơ, thiếu thốn khi "Bầu trời nhìn chưa phẳng/ Mặt đất còn nhấp nhô" nên con người thời cổ đã khẩn trương cùng nhau đi tái tạo thế giới.
Để có thể san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời thì người Lô Lô đã biết tận dụng sức mạnh của các loài vật xung quanh lúc bấy giờ:
"Kiếm con trâu sừng cong
Chọn con trâu sừng dài"
Họ kiếm những con trâu sừng phải cong, phải dài vì đây là những con trâu khỏe, trâu tốt. Chúng đi cày bừa san đất mà không quản gì mệt nhọc. Có sức giúp đỡ của chúng thì công cuộc cải tạo mặt đất của người Lô Lô xưa chẳng mấy chốc mà thành. Thế nhưng công việc san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời là công việc chung của muôn loài nên con người đã đi chuột chũi cóc, ếch. Đáp lại lời kêu gọi của người Lô Lô xưa, các con vật đều tìm cớ trốn tránh, thoái thác. Không thể trông cậy vào chúng, con người đã tập hợp sức mạnh của nhau để cải tạo thiên nhiên "Giống nào cũng không đi/ Người gọi nhau làm lấy". Truyện "Đi san mặt đất" của người Lô Lô không chỉ đơn thuần là lời lí giải về sự bằng phẳng của mặt đất và bầu trời mà còn phản ánh nhận thức của người Lô Lô xưa về quá trình tạo lập thế giới. Theo cách lí giải của họ, để có được mặt đất, bầu trời bằng phẳng như ngày nay thì người Lô Lô xưa đã phải đi san mặt đất. Con người đã tự biết tập hợp sức mạnh của cộng đồng để chung tay thực hiện công việc. Và qua đây, ta thấy được con người trong buổi sơ khai đã có ý thức trong việc cải tạo thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống của chính mình.
Không chỉ độc đáo ở chủ đề, truyện "Đi san mặt đất" còn có những đặc sắc ở khía cạnh nghệ thuật. Người Lô Lô xưa đã sáng tạo truyện thần thoại bằng hình thức thơ ca với giọng điệu vui tươi, nhí nhảnh tạo cảm giác thích thú cho người đọc.
Bên canh đó, truyện còn sử dụng biện pháp nhân hóa cùng với ngôn ngữ giản dị, giàu hình ảnh. Các con vật được nhân hóa có những cử chỉ giống con người đã giúp cho chuyện trở nên sinh động hơn. Người Lô Lô xưa đã sử dụng ngôn ngữ gần gũi, giản dị giúp cho bạn đọc ở mọi lứa tuổi dễ dàng tiếp nhận truyện.
"Đi san mặt đất" là một trong những truyện thần thoại đặc sắc của người Lô Lô. Truyện đã thể hiện những lí giải nguyên sơ của người xưa về vũ trụ, về thế giới qua thể thơ năm chữ kết hợp sử dụng các biện pháp nghệ thuật. Qua câu chuyện, ta càng thêm ấn tượng với trí tưởng tượng của người xưa trong việc sáng tạo những giá trị văn hóa dân gian.
Câu 1: Phân tích truyện cười Tam Đại con gà và nêu ý nghĩa phê phán của truyện
Trong những câu chuyện kể dân gian, ngắn gọn nhưng thú vị nhất có lẽ là truyện cười. Từ trẻ nhỏ hay người lớn khi đọc đều cảm thấy sảng khoái với tiếng cười câu chuyện mang lại. Chính những đặc trưng của thể loại truyện này đã tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc.
Nhưng nó phải bằng hai mày của thể loại truyện nằm trong chính cách xây dựng tình huống truyện. Tình huống truyện cười luôn là những tình huống mâu thuẫn. Truyện bao giờ cũng đặt “cái đáng cười” vào một tình huống để nó tự diễn tiến tự nhiên, nhanh chóng đi đến chỗ gay cấn rồi kết thúc bất ngờ.
Đối với truyện Tam đại con gà, câu chuyện có nhiều hành động và lời nói của thầy đồ có tác dụng gây cười. Các hành động của "Ông thầy" như bảo học trò đọc khe khẽ, vì thầy cũng không chắc là đúng nên phải "thận trọng" để giấu dốt. Hành động thứ hai là xin đài âm dương 3 lần, đây quả là hành động ngược đời. Nếu thầy thực sự là người có tính cầu thị, đúng ra phải hỏi lại người có hiểu biết hơn mình để giảng giải cho học trò rõ nhưng lại tin vào bói toán. Ngồi bệ vệ trên giường, bảo học trò đọc to, đắc chí với sự ngốc nghếch của mình mà không biết.
Lời nói của thầy bao biện khi biết mình sai, đã tạo nên tiếng cười cho câu chuyện: Dủ dỉ là con dù dì, Dạy cho cháu biết đến tận tam đại con gà, Dủ dỉ là chị con công, con công là ông con gà. Mục đích mọi sự chống chế của thầy là để giấu dốt. Nó ngược hẳn với sự tự nhận thức của thầy ở trên. Chính mâu thuẫn trái tự nhiên này đã tạo ra tiếng cười cho người đọc, người nghe câu chuyện. Các sự kiện được sắp xếp theo trật tự tăng tiến. Mức độ phi lí và sự nực cười của lời nói và hành động ngày càng được đẩy lên cao.
Câu 2: Phân tích nghệ thuật gây cười trong truyện Nhưng nó phải bằng hai mày. Nêu ý nghĩa của truyện.
Đối với truyện Nhưng nó phải bằng hai mày, cũng xây dựng tình huống truyện khá độc đáo, đó là tình huống xử kiện. Tình huống của truyện cười này được dựng lên từ hai mâu thuẫn trong truyện: lí trưởng nổi tiếng xử kiện; Ngô và Cải đều đút lót trước cho thầy lí. Người nghe, người đọc bị cuốn vào sự tò mò: Lí trưởng giỏi sử kiện sẽ xử thế nào trong tình huống nhận đút lót từ hai phía. Sức hấp dẫn của truyện cũng nằm trong chính điều đó.
Nét đặc trưng thứ hai của thể loại truyện cười là tính kịch, yếu tố kịch. Mỗi truyện như một màn kịch nhỏ xoay quanh mâu thuẫn gây cười.
Trong Tam đại con gà, yếu tố kịch nằm chi tiết thầy thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối, không biết chữ gì, học trò hỏi gấp và chi tiết bố học trò đang cuốc đất ngoài vườn, nghe thầy dạy sai, bỏ cuốc chạy vào. Thầy lí bị rơi vào một tình huống khó, phải tìm ngay cách xử trí gấp. Nhưng chính những kịch tính này đã thúc đẩy câu chuyện phát triển, xúc tác cho tình huống truyện diễn ra nhanh chóng, mang đến tiếng cười cho truyện.
Ở truyện Nhưng nó phải bằng hai mày, kịch tính được thể hiện qua lời nói và động tác giữa hai nhân vật. Cải cảm thấy yên tâm sẽ được thắng kiện vì đã đút lót cho quan, nhưng hành động xử kiện của thầy lí thật bất ngờ, cách giải thích của thầy lí cũng bất ngờ khiến Cải không kịp trở tay, rơi vào tình trạng bi hài, “tiền mất, tật mang”.
Thứ ba, các truyện cười thường có dung lượng ngắn, chi tiết cô động, hành động của nhân vật dứt khoát, kết cấu lôgíc chặt chẽ và kết thúc bằng những sự việc hoặc liên tưởng bất ngờ.
Cả hai truyện cười đã mang lại tiếng cười cho người đọc, nhưng đằng sau mỗi truyện cười lại ẩn chứa một ý nghĩa sâu xa, đó là tiếng cười đả kích, châm biếm hoặc phê phán những thói hư, tật xấu, những hủ tục lạc hậu. Những đặc trưng về nội dung và nghệ thuật của truyện cười đã góp phần làm nên thành công cho mỗi câu chuyện, Để đến hôm nay, qua biết bao thế hệ, những câu chuyện đó vẫn được ông bà dạy lại cho con cháu như những bài học kinh nghiệm về cách ứng nhân xử thế ở đời.
Câu 2: Phân tích nghệ thuật gây cười trong truyện Nhưng nó phải bằng hai mày. Nêu ý nghĩa của truyện.
Phân tích tính kịch trong đoạn “Cải vội xòe 5 ngón tay... bằng hai mày”.
a. a. Cải lót tiền trước cho lí trưởng nên quan hệ giữa Cải và Lí trưởng là quan hệ đã được dàn xếp, đã được mua bán bằng đồng tiền. Cải yên tâm về mối quan hệ này, chắc chắn là mình sẽ được kiện. Thế nhưng khi lên công đường tình huống mới đột ngột xuất hiện. Lí trưởng tuyên bố đánh Cải chục roi. Đây là hành vi bất ngờ ngoài dự kiến của Cải, đặt ra nhiều phán đoán với nhân vật, với người đọc. Từ đó, dẫn đến xuất hiện một màn kịch ngắn. Hai nhân vật, một bên hết sức ngạc nhiên và cố xin xét lại, một bên thản nhiên kết án, một bên hoàn toàn bị động, một bên rất chủ động. Động tác và lời nói hai bên hoàn toàn trái ngược nhau. Động tác và lời nói cuối cùng của thầy lí kết thúc màn kịch, giải quyết tinh huống, mọi phán đoán đều đã có một kết luận chung. Quan hệ giữa Cải và thầy lí bị xóa bỏ bởi một quan hệ mới được dàn xếp tốt hơn đã thay thế. Đó là quan hệ giữa Ngô và thầy lí.
b. Trong màn kịch ngắn trên, “ngôn ngữ” giao tiếp của hai nhân vật là lời nói và hành động. Hai thứ ngôn ngữ này cùng kết hợp với nhau để đưa ra một nội dung cụ thể:
Hành động
Lời nói
Xòe năm ngón tay
Lẽ phải
Xòe năm ngón tay trái úp lên 5 ngón tay phải
Lẽ phải gấp đôi
Hành động là để 2 người trong cuộc hiểu nhau. Còn ngôn ngữ thì công khai nói cho tất cả những người có mặt nghe. Hai thứ ngôn ngữ này phải kết hợp lại nhau mới tạo thành nội dung đối thoại đầy đủ, rõ ràng:
Lẽ phải được tính bằng 5 ngón tay, 2 lần lẽ phải là 10 ngón tay. Quay lại đối chiếu với phần đầu, người ta hiểu được tính chất quy ước ở đây: 5 ngón tay bằng 5 đồng, tức là ngón tay của Cải trở thành ký hiệu tiền tệ và hai bàn tay úp vào nhau của lý trưởng là ký hiệu cho lượng tiền đút lót của Ngô và Cải.
Tức là lẽ phải chính là tiền. Tiền là lẽ phải được đem ra để làm cán cân công lý. Tiền nhiều thì lẽ phải nhiều, tiền ít thì lẽ phải ít, bên nào nặng tiền hơn thì cán công lý nghiêng về phía đó. Đó chính là nội dung tố cáo của truyện.
Như vậy yếu tố kịch trong đoạn truyện được tạo nên qua lời nói và hành động của hai nhân vật Cải và Lí trưởng. Cái yên tâm được kiện, nhưng hành động xử kiện của lí trưởng hoàn toàn ngược lại với sự yên tâm của Cải và cách giải thích của quan tòa khiến Cải không kịp trở tay, rơi vào tình trạng bi hài: Vừa mất tiền vừa bị đánh.
Trong câu nói của lí trưởng có sử dụng hình thức chơi chữ, từ đó mà tạo nên tiếng cười. Từ “phải” ở đây là một từ đa nghĩa. Nghĩa thứ nhất là chỉ lẽ phải, chỉ cái đúng, tức là từ chỉ tính chất. Nhưng khi từ này kết hợp với từ chỉ số lượng (bằng 2) thành cụm: “phải bằng 2”, thì nghĩa của nó lại là định lượng cho mức tiền lo lót của Cải và Ngô với lí trưởng. Bằng nghệ thuật chơi chữ như vậy, chỉ trong một lời thoại ngắn, tác giả đã đưa người đọc đi từ trạng thái “tưởng là thế này” (tưởng “phải” là lẽ phải) đến “hóa ra thế kia” (hóa ra “phải” ở đây lại là mức tiền) trong tích tắc. Lời nói của lí trưởng vừa có cái vô lí, vừa có hợp lí. Vô lí khi đặt nó trong một phiên tòa bình thường, hợp lí khi ta đặt nó vào mối quan hệ thực tế giữa các nhân vật. Ở đây lí trưởng nói bằng mối quan hệ thực tế đó, tức là cái hợp lí đã thay thế cho cái vô lí. Từ đó người đọc mới bất ngờ vỡ lẽ về bản chất: tư lợi từ việc công một cách hồn nhiên và trắng trợn của lí trưởng. Một nền công lí được thực thi như thế, do những con người như thế nắm giữ. Thật là nực cười. Tiếng cười được bật ra khi quá trình nhận thức kết thúc.
2. Đánh giá về nhân vật Ngô và Cải.
Hai nhân vật là hình ảnh dại diện cho những người nông dân ghê gớm, ma lanh nội bộ nhưng lại khờ khạo, bị bóp nặn bởi bọn cai trị. Họ vừa là đồng phạm, vừa là nạn nhân của tình trạng tham nhũng của đám hào lí nông thôn, họ vừa đáng thương, lại vừa đáng trách. Chính họ đã góp phần tạo nên và thúc đẩy thói nhũng nhiễu kia, rồi lại tự đẩy mình vào tình cảnh thảm hại, bi hài.