K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Ếch sẽ không chết ngạt nhưng sau 1 thời gian ếch sẽ ngỏm củ tỏi nha bạn. còn lý do thì như sau:
Ếch hô hấp bằng phổi và bằng cách thẩm thấu qua da. Trong trường hợp để ếch trong môi trường nước mũi chúc xuống, khiến việc hô hấp bằng phổi là không thể thực hiện được, đồng thời dù ếch có thể hô hấp thẩm thấu qua da, nhưng lưu ý rằng: hàm lượng oxy trong nước rất ít ( chỉ khoảng 2-3% ) đồng thời da ếch chỉ hoạt động trao đổi khí khi da ẩm ướt và trên cạn nên ta có thể kết luận Ếch sẽ "ngỏm" nếu bị chúc mũi xuống. Chúc bạn học tốt!

7 tháng 7 2018

Ếch sẽ không chết ngạt nhưng sau 1 thời gian ếch sẽ ngỏm nha bạn. còn lý do thì như sau:
Ếch hô hấp bằng phổi và bằng cách thẩm thấu qua da. Trong trường hợp để ếch trong môi trường nước mũi chúc xuống, khiến việc hô hấp bằng phổi là không thể thực hiện được, đồng thời dù ếch có thể hô hấp thẩm thấu qua da, nhưng lưu ý rằng: hàm lượng oxy trong nước rất ít ( chỉ khoảng 2-3% ) đồng thời da ếch chỉ hoạt động trao đổi khí khi da ẩm ướt và trên cạn nên ta có thể kết lúc Ếch sẽ ngỏm nếu bị chúc mũi xuống. Chúc bạn học tốt!

Tên di chứngmô tả
Bọc máu tụ nội sọ:Quan trọng bậc nhất là sự hình thành bọc máu tụ nội sọ do nhiều điểm hoại tử não hợp thành hoặc do đứt rách những động mạch lớn do chấn thương quá mạnh. Các khối máu tụ này có thể khu trú ở nhiều vùng của não. Tùy theo mức độ chấn thương, máu tụ có thể tập trung ở dưới màng cứng, trong não, trong não thất, dưới lều tiểu não. Trong đó, máu tụ trong não thất là một hậu quả nặng nề của CTSN. Khi bị vỡ, đứt các mạch máu lớn, máu tràn vào các não thất đến mức nặng là “lụt não thất” cũng thường xảy ra trong trường hợp xuất huyết não trong đột quỵ mạch máu não.
Phù não:Trong các hậu quả của CTSN, phù não là biến chứng phổ biến nhất và nguy hại nhất, đe dọa tính mạng nạn nhân.
Thoát vị não:Trường hợp phù não nặng sẽ gây nên thoát vị não. Phù não chèn ép quá mạnh gây nên tình trạng một phần của não bị đẩy ra, chui vào các khoang, khe, lỗ hở, đặc biệt nguy hiểm nhất là thể thoát vị não tại lỗ lớn của xương chẩm gây chèn ép hành tủy, nơi có “nút sống” là trung tâm chi phối hô hấp và tim mạch.
Hội chứng tăng áp lực nội sọ:Tất cả những biến chứng của chấn thương sọ não, trong đó có vai trò quan trọng của phù não đã dẫn đến hội chứng tăng áp lực nội sọ với ba triệu chứng chủ yếu: đau đầu (cảm giác đau theo nhịp mạch đập, đau giật hay đau như nổ tung đầu. Đau với cường độ ngày càng tăng lên làm bệnh nhân kêu rên, la hét); nôn mửa do tăng áp lực nội sọ chèn ép các nhân dây thần kinh sọ não; phù đĩa thị hay phù gai thị.
Thiếu máu não:Tại vùng thiếu máu não sẽ phát sinh những “ổ thiếu máu” kể cả trong trường hợp thiếu máu não không do chấn thương (thiếu máu não tạm thời hoặc vĩnh viễn, nhồi máu não…). Ở thiếu máu não sẽ hình thành ba vùng: vùng thiếu máu não quá mức sẽ xuất hiện vùng não hoại tử, không hồi phục; vùng bán ảnh là vùng nhu mô não cũng bị thiếu máu tương đối nặng nhưng chưa đến mức hoàn toàn bị hủy hoại, vẫn còn khả năng hồi phục; vùng não nguyên lành, vùng này có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là vùng gần mạng lưới động mạch, có nhiều khả năng nhận và chuyển tiếp máu “ứng cứu” cho tế bào não tại vùng bán ảnh.
Tên di chứngmô tả
Bọc máu tụ nội sọ:Quan trọng bậc nhất là sự hình thành bọc máu tụ nội sọ do nhiều điểm hoại tử não hợp thành hoặc do đứt rách những động mạch lớn do chấn thương quá mạnh. Các khối máu tụ này có thể khu trú ở nhiều vùng của não. Tùy theo mức độ chấn thương, máu tụ có thể tập trung ở dưới màng cứng, trong não, trong não thất, dưới lều tiểu não. Trong đó, máu tụ trong não thất là một hậu quả nặng nề của CTSN. Khi bị vỡ, đứt các mạch máu lớn, máu tràn vào các não thất đến mức nặng là “lụt não thất” cũng thường xảy ra trong trường hợp xuất huyết não trong đột quỵ mạch máu não.
Phù não:Trong các hậu quả của CTSN, phù não là biến chứng phổ biến nhất và nguy hại nhất, đe dọa tính mạng nạn nhân.
Thoát vị não:Trường hợp phù não nặng sẽ gây nên thoát vị não. Phù não chèn ép quá mạnh gây nên tình trạng một phần của não bị đẩy ra, chui vào các khoang, khe, lỗ hở, đặc biệt nguy hiểm nhất là thể thoát vị não tại lỗ lớn của xương chẩm gây chèn ép hành tủy, nơi có “nút sống” là trung tâm chi phối hô hấp và tim mạch.
Hội chứng tăng áp lực nội sọ:Tất cả những biến chứng của chấn thương sọ não, trong đó có vai trò quan trọng của phù não đã dẫn đến hội chứng tăng áp lực nội sọ với ba triệu chứng chủ yếu: đau đầu (cảm giác đau theo nhịp mạch đập, đau giật hay đau như nổ tung đầu. Đau với cường độ ngày càng tăng lên làm bệnh nhân kêu rên, la hét); nôn mửa do tăng áp lực nội sọ chèn ép các nhân dây thần kinh sọ não; phù đĩa thị hay phù gai thị.
Thiếu máu não:Tại vùng thiếu máu não sẽ phát sinh những “ổ thiếu máu” kể cả trong trường hợp thiếu máu não không do chấn thương (thiếu máu não tạm thời hoặc vĩnh viễn, nhồi máu não…). Ở thiếu máu não sẽ hình thành ba vùng: vùng thiếu máu não quá mức sẽ xuất hiện vùng não hoại tử, không hồi phục; vùng bán ảnh là vùng nhu mô não cũng bị thiếu máu tương đối nặng nhưng chưa đến mức hoàn toàn bị hủy hoại, vẫn còn khả năng hồi phục; vùng não nguyên lành, vùng này có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là vùng gần mạng lưới động mạch, có nhiều khả năng nhận và chuyển tiếp máu “ứng cứu” cho tế bào não tại vùng bán ảnh.
2. Nghiên cứu tổng khối lượng các chất trước và sau phản ứng hóa học. Làm thế nào có thể biết được tổng khối lượng của các chất trước phản ứng hóa học và tổng khối lượng của các chất sau phản ứng hóa học có thay đổi hay không? Hãy thực hiện thí nghiệm (ghi hiện tượng và kết quả thu được vào bảng 1.3):- Lấy 2 - 3 mảnh/viên kẽm nhỏ, dùng giấy ráp đánh nhẹ cho hết lớp...
Đọc tiếp

2. Nghiên cứu tổng khối lượng các chất trước và sau phản ứng hóa học. 

Làm thế nào có thể biết được tổng khối lượng của các chất trước phản ứng hóa học và tổng khối lượng của các chất sau phản ứng hóa học có thay đổi hay không? 

Hãy thực hiện thí nghiệm (ghi hiện tượng và kết quả thu được vào bảng 1.3):

- Lấy 2 - 3 mảnh/viên kẽm nhỏ, dùng giấy ráp đánh nhẹ cho hết lớp oxit mỏng ở phía ngoài (1), sau đó dùng cân kĩ thuật/cân điện tử/bộ cảm biến để cân tổng khối lượng của các mảnh/viên. 

- Lấy 50 ml dung dịch muối đồng sunfat CuSO4 nồng độ khoảng 0,5M cho vào các cốc thủy tinh sạch (loại 100 ml) (2), dùng cân kĩ thuật/cân điện tử/ bộ cảm biến để cân khối lượng cốc đựng dung dịch muối đồng sunfat. 

- Cho các mảnh/viên kẽm (1) vào cốc đựng dung dịch muối đồng sunfat (2), quan sát hiện tượng xảy ra trong khoảng 3 phút, nhận xét về sự thay đổi màu sắc của dung dịch muối đồng sunfat và các mảnh/viên kẽm.

- Dùng cân kĩ thuật/cân điện tử/bộ cảm biến để cân lại tổng khối lượng của cốc đựng dung dịch muối đồng sunfat và các mảnh/viên kẽm sau thí nghiệm.

Trả lời các câu hour sau:

a) Nhận xét về tổng khối lượng của các cốc đựng dung dịch muối đồng sunfat và các mảnh/viên kẽm sau thí nghiệm so với tổng khối lượng của các mảnh/viên kẽm và khối lượng cốc đựng dung dịch muối đồng sunfat trước thí nghiệm.

b) So sánh các số liệu thu được của nhóm em với số liệu của các nhóm khác (giống nhau,  khác nhau). Giải thích.

0
định nào đó của chủ. Ví dụ như kia, ông đang đứng bên cửa sổ và nhìn,nhìn ra xa xa và nghĩ, ngẫm nghĩ. Lúc ấy Bim liền đến ngồi xuống bênvà cũng nhìn, cũng nghĩ. Người không hiểu chó nghĩ gì, còn chó thì cóvẻ như muốn nói: "Giờ thì ông bạn phúc hậu của ta sẽ ngồi vào bàn,nhất định sẽ ngồi. Ông ấy sẽ đi bách bộ vài bước từ góc nọ sang góc kia,rồi sẽ ngồi xuống, rồi sẽ...
Đọc tiếp

định nào đó của chủ. Ví dụ như kia, ông đang đứng bên cửa sổ và nhìn,
nhìn ra xa xa và nghĩ, ngẫm nghĩ. Lúc ấy Bim liền đến ngồi xuống bên
và cũng nhìn, cũng nghĩ. Người không hiểu chó nghĩ gì, còn chó thì có
vẻ như muốn nói: "Giờ thì ông bạn phúc hậu của ta sẽ ngồi vào bàn,
nhất định sẽ ngồi. Ông ấy sẽ đi bách bộ vài bước từ góc nọ sang góc kia,
rồi sẽ ngồi xuống, rồi sẽ cầm cái que đưa lướt trên tờ giấy trắng, và tờ
giấy này sẽ thì thào khe khẽ. Trò ấy sẽ lâu đấy, vì vậy cho nên cả ta nữa,
ta cũng sẽ ngồi xuống bên ông ấy". Sau đó dúi dúi mũi vào lòng bàn tay
ấm áp của chủ. Và chủ nói:
- Nào, bé Bim, ta làm việc thôi. - Và đúng vậy, ông ngồi xuống.
Và Bim cuộn tròn nằm dưới chân ông, hoặc nếu ông bảo "Về chỗ" thì nó
sẽ đi về ổ đặt trong góc phòng và sẽ đợi. Nó đợi một cái nhìn, một lời
nói, một cử chỉ. Tuy vậy một lát sau cũng có thể rời ổ, hì hục với một
khúc xương tròn, chả gặm được đâu, nhưng là để mài răng cho sắc thôi,
- chỉ có điều là đừng làm
Nhưng khi Ivan Ivanưts đưa tay lên ôm mặt, khuỷu chống lên bàn, thì
Bim tới bên ông và đặt cái mõm có hai tai hai màu lên đầu gối ông. Và
cứ đứng thế. Nó hiểu, nó mơn trớn. Nó hiểu ông bạn nó có điều gì
không vui. Và Ivan Ivanưts cảm ơn nó:
- Cảm ơn mày, cu con ơi, cảm ơn Bim, - và cái que lại thì thào trên mặt
tờ giấy trắng.
Ở nhà thì thế đấy.
Nhưng ở ngoài đồng cỏ thì không phải thế. Ở ngoài ấy cả hai đều quên
hết mọi sự. Ở đó có thể chạy, nhảy nhót, đuổi bướm, lăn lóc trên cỏ, - cái
gì cũng được phép. Nhưng khi Bim đã tròn tám tháng tuổi thì ngay cả ở
đó nữa, mọi cái đều diễn ra nhất nhất theo khẩu lệnh của chủ: "Cho đi!",
thế là có thể đi chơi được, - "Lùi lại", rất dễ hiểu, - "Nằm xuống", quá rõ
rồi, - "Hấp!", là nhảy qua, - "Tìm đi", là đi tìm mẩu pho mát, - "Bên
cạnh", là đi bên cạnh chủ, nhưng chỉ phía bên trái thôi, - "Lại đây!", là
chạy mau về chỗ chủ, và sẽ được một miếng đường. Và đến tuổi một
năm thì Bim đã hiểu nhiều tiếng khác nữa. Đôi bạn, một người một chó,
càng ngày càng hiểu nhau hơn, yêu nhau và sống bình đẳng.
Nhưng đã xảy ra một việc làm đảo lộn cuộc sống của Bim, và chỉ trong
vài ngày nó đã trưởng thành vọt lên. Chuyện đó xảy ra chỉ là vì Bim
Con Bim Trắng Tai Đen G.trôieppônxki
Chương 1: Hai Thày Trò Một Buồng Trang 14
bỗng phát hiện ra một khuyết tật lớn, đáng lạ lùng của chủ.
Sự thể là thế này. Như một con thoi, Bim đang ra sức sục sạo kỹ lưỡng
trên đồng cỏ, cố tìm cho được miếng pho mát chủ ném ra thì chợt, giữa
các mùi khác nhau của cỏ, của hoa, của bản thân đất và dòng sông, sực
lên một luồng không khí khác thường và rạo rực: mùi của một con chim
gì đó, không giống tí nào với mùi những con chim Bim từng biết, - các
chú chim sẻ đủ loại, các chú vành khuyên vui tính, các chú chìa vôi và
các loại linh tinh khác mà đừng có hoài công đuổi bắt làm gì vô ích
(người ta đã thử rồi). Sực lên mùi một con chim gì đó chưa từng biết, nó
làm máu trong người nôn nao. Bim đứng sững lại, đưa mắt nhìn Ivan
Ivanưts, nhưng ông ta lại quay sang phía khác, tuyệt nhiên không nhận
thấy một cái gì cả. Bim lấy làm ngạc nhiên: ông bạn thế ra không đánh
hơi thấy. Vậy đích thị ông bị tật rồi! Và thế là Bim tự quyết định một
mình: nó lặng lẽ nhoài người bước lên, tiến đến gần cái không biết là gì
ấy, chẳng nhìn gì Ivan Ivanưts nữa. Bước chân nó mỗi lúc một dứt khoát
hơn, nó dường như chọn kỹ từng điểm để đặt từng bàn chân xuống,
làm sao cho không sột soạt, không vướng vào cành gai. Cuối cùng, cái
mùi ấy mạnh quá đến nỗi không thể nào tiến lên được nữa. Và Bim
đứng chết lặng tại chỗ, đờ ra như hóa đá, cái cẳng trước vẫn giơ lên,
chưa kịp đặt xuống đất. Đó là bức tượng một con chó, dường như do
một nhà điêu khắc điêu luyện tạo nên. Đó, lần đầu tiên nó đứng khựng
lại rình mồi là đó! Sự thức tỉnh đầu tiên của lòng đam mê săn mồi, ham
mê đến mức quên cả bản thân.
Ồ mà đâu phải, chủ nó khe khẽ bước tới bên nó, vuốt vuốt lên mình Bim
đang rùng rùng xúc động:
- Tốt, tốt, cu con ạ. Tốt lắm. - Rồi nắm lấy cổ dề nó: - Tiến... Tiến lên...
Nhưng Bim chịu chết: đứt hơi rồi.
- Tiến... Tiến lên... - Ivan Ivanưts lôi nó.
Và nó cất chân bước! Rón rén, rón rén. Chỉ còn một tí nữa thôi, - cái
chưa từng biết kia hình như sát đâu đây. Nhưng bỗng một hiệu lệnh gắt
- Tiến lên!!!
Bim lao lên. Một con chim cun cút bay vọt ra ồn ào. Bim xốc tới và...
đuổi theo, cắm đầu cắm cổ, dốc toàn lực.
Con Bim Trắng Tai Đen G.trôieppônxki
Chương 1: Hai Thày Trò Một Buồng Trang 15
- Lùi lại-i - Chủ nó hét lên.
Nhưng Bim chẳng nghe thấy gì cả, dường như cũng chẳng có tai để mà
nghe nữa.
- Lùi lại-i! - Một tiếng còi. Lùi lại-i! - Một tiếng còi nữa.
Bim cứ thế phóng thục mạng cho đến lúc mất hút con chim cun cút, sau
đó quay trở về, vui vẻ, tươi hơn hớn. Nhưng thế này là thế nào nhỉ? Chủ
nó mặt sa sầm, nghiêm khắc nhìn nó, chẳng vuốt ve nó. Mọi chuyện thế
là rõ: ông bạn nó không đánh hơi thấy cái gì cả! Ông bạn bất hạnh... Bim
liếm liếm tay ông với một vẻ thận trọng, qua đó nói lên một lòng
thương xót đáng cảm động trước cái khiếm khuyết quá nổi bật có tính
chất di truyền của con người thân cận nhất của nó.
Ông chủ nói:
- Mày thật chả ra thế nào cả, đồ ngốc ạ. - Rồi bằng giọng vui vẻ hơn: -
Nhưng không sao, nào, ta bắt đầu, Bim, một cách thực thụ. - Ông tháo
cái cổ dề ra, thay vào đó một cái khác (vướng víu khó chịu) và móc vào
đó một sợi dây da dài: - Tìm đi.
Bây giờ thì Bim đi tìm một cái mùi chim cun cút, chỉ cái mùi ấy thôi. Và
Ivan Ivanưts dẫn nó đến cái chỗ con chim vừa mới bay chuyền tới. Bim
thật không ngờ là ông bạn mình đã nhìn thấy đại để cái nơi con cun cút
đậu xuống sau cuộc đuổi bắt nhục nhã kia (đánh hơi thì tất nhiên ông
chẳng thấy đâu, nhưng nhìn thì ông ta đã nhìn thấy).
Và cái mùi ấy, chính nó đây rồi! Bim không để ý sợi dây da, lao thẳng
lên, kéo, kéo, ngẩng cao đầu mà kéo căng ra... Một lần nữa nó lại dừng
lại! Nó sửng sốt trước vẻ đẹp kỳ lạ của ánh nắng trên nền trời chiều, một
vẻ đẹp dễ mấy ai hiểu nổi. Ivan Ivanưts xúc động run lên, nắm lấy đầu
dây da, cuộn chặt vào tay, khẽ ra lệnh:
- Tiến... Tiến lên...
Bim kéo cương bước đi. Và một lần nữa lại đứng khựng lại.
- Tiến lên!!!
Bim lại lao bổ lên, như lầu đầu. Lần này con chim cun cút vỗ cánh
phành phạch bay vọt lên. Bim lại xông lên một cách ngớ ngẩn để đuổi
Con Bim Trắng Tai Đen G.trôieppônxki
Chương 1: Hai Thày Trò Một Buồng Trang 16
bắt con chim, nhưng... sợi dây da giật mạnh bắt nó phải nhảy lùi lại.
- Lùi lại!!!! - Chủ nó quát. - Lùi lại!!!
Bim ngã xuống, quay lơ.
Nó chẳng hiểu là thế nào. Và một lần nữa lại kéo căng dây cương về
phía có con cun cút.
- Nằm xuống.
Bim nằm xuống.
Và một lần nữa mọi sự lặp lại, lần này là với một con chim cun cút khác.
Nhưng bây giờ Bim cảm thấy cái giật của sợi dây cương sớm hơn lần
trước, và nghe thấy lệnh thì nằm bẹp xuống, run lên vì xúc động, vì
hăng say và đồng thời cũng vì buồn, và nản: tất cả những cái đó hiện ra
trong bộ dạng nó, từ mũi đến đuôi. Mà đau thật cơ! Và không phải chỉ
vì sợi dây cương ác nghiệt đáng ghét kia, mà còn vì cái gai bên trong
vòng cổ dề nữa.
- Vậy đấy, Bim ạ. Phải thế, không khác được. - Ivan Ivanưts âu yếm vuốt
lông Bim.
Chính từ ngày ấy Bim đã trở thành con chó săn thực thụ. Cũng từ ngày
hôm ấy nó đã vỡ nhẽ ra rằng chỉ mình nó, chỉ một mình nó thôi là có thể
biết được con chim ở đâu, còn ông chủ nó thì chịu, và cái mũi ông ta có
chẳng qua chỉ là để cho đẹp mắt. Bắt đầu một sự nghiệp thực thụ mà cơ
sở của nó là ba tiếng: không được, lùi lại, tốt.
Rồi sau đó - chao ôi! Sau đó là khẩu súng! Một phát nổ đoàng. Con cun
cút rụng xuống như bị dội nước sôi.
Và té ra là đuổi bắt chim cun cút là một chuyện hoàn toàn không nên,
chỉ tìm nó thôi, xùy cho nó bay lên, rồi nằm xuống. Mọi việc sau đó do
ông bạn nó đảm nhiệm.
Thế là hòa: Chủ không có tài đánh hơi, chó không có súng.
Tình bạn đầm ấm và lòng chung thủy đã biến thành niềm hạnh phúc
như vậy đó, bởi vì bên nọ hiểu bên kia và không đòi hỏi ở bên kia nhiều
hơn cái mà bên kia có thể cho được. Đó là cơ sở, là hương vị của tình
bạn.
Con Bim Trắng Tai Đen G.trôieppônxki
Chương 1: Hai Thày Trò Một Buồng Trang 17
Lên hai tuổi Bim đã trở thành một con chó săn xuất sắc, cả tin và ngay
thẳng. Nó đã biết được gần một trăm từ liên quan đến săn bắn và cuộc
sống ở nhà: Ivan Ivanưts nói "Đưa đây" ư, - Xong ngay; nói "Đưa dép
đây", - nó đưa. "Mang bát đến đây", nó ma đến; "Ngồi lên ghế!" - nó
ngồi. Thế đã ăn thua gì! Chỉ nhìn mắt nó là đã hiểu rồi: chủ nhìn người
nào bằng con mắt thân thiện thì đối với Bim cũng từ cái phút ấy người
ấy là người quen; chủ nhìn bằng con mắt ác cảm ư thì Bim có lần thậm
chí đã nổi đóa lên nữa, ngay cả khi nó bắt nhận được trong giọng nói
người kia một cái ý nịnh nọt (nịnh ngọt như mía lùi). Nhưng Bim không
cắn ai bao giờ, dù có bị xéo lên đuôi. Ban đêm, nó sủa lên để báo trước
có người lạ đang tới, xin mạn phép thế thôi chứ cắn thì không, trong bất
kể trường hợp nào. Quả thật là thông minh có nòi.
Về đầu óc thông minh thì Bim đã biết cả đến như thế này: nó đã tự hiểu
ra được, bằng cái trí não của chính bản thân nó mà đi tới được chỗ biết
cào cửa để người ta mở ra cho. Có lần Ivan Ivanưts bị ốm, không đi dạo
với nó được và thả cho nó đi một mình, Bim chạy nhông một tí, giải
quyết những việc cần thiết rồi vội vã trở về. Nó đứng dựng hai chân
sau, cào cào cánh cửa, kẽ kêu ăng ẳng vài tiếng như khẩn cầu, và cánh
cửa đã mở ra. Chủ nặng nề lê bước lệt sệt ra hành lang đón nó, vuốt ve
nó rồi lại lên giường nằm. Đó là những khi ông chủ nó, một người đã
luống tuổi, bị ốm (và càng ngày ông càng hay bị ốm vặt thế, điều mà
Bim không thể không nhận thấy).
Bim nắm được rất chắc; cứ cào vào cửa, thế nào người ta cũng sẽ mở cho
vào; cái cửa sinh ra chính là để cho người ta có thể vào được: khắc yêu
cầu, khắc vào được. Đứng trên quan điểm của một con chó, đó đã là một
niềm tin vững chắc.
Có điều là Bim không biết, nó không biết và không thể biết được rằng
niềm tin ngây thơ ấy về sau này đã đem lại cho nó biết bao sự vỡ mộng
và tai ương, nó không biết và không thể biết rằng có những cánh cửa
không mở ra, dù nó có cào đến
Nhưng đó là chuyện về sau, chuyện chưa biết, và bây giờ chỉ còn một
điều để nói: Bim, một con chó có tài đánh hơi xuất sắc, dẫu sao cũng vẫn
là đáng ngờ; nó không được cấp giấy chứng chỉ chó nòi. Ivan Ivanưts đã
hai lần đưa nó đi triển lãm: người ta đã đưa nó xuống đài không cần
đánh giá. Nghĩa là nó bị loại.
Con Bim Trắng Tai Đen G.trôieppônxki
Chương 1: Hai Thày Trò Một Buồng Trang 18
Nhưng Bim vẫn cứ không phải thuộc một giống nòi vô tích sự, mà là
một con chó thực thụ, tuyệt vời: nó đã bắt đầu công việc săn chim từ lúc
tám tháng tuổi, Và săn ra săn! Những muốn tin rằng trước mắt nó mở ra
một tương lai tốt đẹp.
Con Bim Trắng Tai Đen G.trôieppônxki
CHƯƠNG 2
RỪNG XUÂN
Vào mùa săn thứ hai, tức là năm thứ ba sau khi Bim ra đời, Ivan Ivanưts
cho nó làm quen với rừng. Đó là một chuyện hết sức lý thú đối với cả
chó lẫn chủ.
Trên bãi cỏ và cánh đồng kia mọi cái đều thấy rõ ràng: khoảng rộng,
ngọn cỏ, cây lúa, lúc nào cũng trông thấy bóng chủ, cứ lao như một con
thoi sục sạo ngang dọc, tìm kiếm, phát hiện, khựng lại và đợi lệnh.
Tuyệt! Còn ở trong rừng đây thì lại hoàn toàn khác hẳn.
Đầu mùa xuân.
Khi hai thầy trò đến đây lần đầu, trời chỉới hoàng hôn, nhưng giữa các
hàng cây đã nhọ mặt người mặc dù bóng lá còn chưa hiện. Ở dưới thấp
mọi vật đều sẫm màu: các thân cây, lớp lá màu nâu thuẫn của năm
trước, các ngọn cỏ khô, và ngay cả đến những trái kim anh đỏ thắm của
mùa thu cầm cự được qua mùa đông, giờ đây nom cũng cứ như những
hạt cà phê vậy.
Cành lá khẽ xào xạc gió nhẹ, nghe lơ thơ và trần trụi: chúng như sờ soạng nhau
khi chạm nhau ở đầu cành, khi thì khẽ đụng nhau ở giữa
cành: chúng còn sống không nhỉ? Ngọn cây khe khẽ lắc lư, - dù không
lá, cây có vẻ vẫn còn sống. Muôn vật xào xạc huyền bí và ngào ngạt mùi
hương: cả những cây kia, cả lớp lá dưới chân, mềm mại và quyện hương
xuân của đất rừng, cả các bước chân của Ivan Ivanưts bước đi rón rén và
êm ru. Đôi ủng của ông cũng xào xạc, và vết chân ông ở đây cũng sực
mùi hơn ở ngoài đồng. Sau mỗi gốc cây lại có một cái gì mới lạ, bí hiểm.
Chính vì vậy mà Bim không rời xa Ivan Ivanưts quá hai chục bước: nó
chạy lên trước - tạt trái, tạt phải - rồi chạy trở lại, rồi nhìn mặt chủ, ý hỏi:
"Ta sa vào đây để làm gì thế nhỉ?".
- Không biết để làm gì à? - Ivan Ivanưts đoán hiểu. - Rồi sẽ biết, Bim ạ
rồi sẽ biết. Cứ đợi tí.

nữa này
 

6
7 tháng 10 2016

Hay !

7 tháng 10 2016

còn khá nhìu

21 tháng 2 2020

a)

Việt Nam ta là một nước nông nghiệp, chính vì thế yếu tố đất đối với chúng ta là một yếu tố quan trọng. Không có đất thì không thể trồng trọt và đương nhiên là không có đất thì làm sao có thể sinh sống được. Câu tục ngữ “Tấc đất tấc vàng” thể hiện rõ sự quý giá của đất đối với con người Việt Nam ta.

Câu tục ngữ ngắn gọn nhưng xét về mặt thể loại thì nó lại là một chỉnh thể thẩm mỹ. Nó chỉ có một câu bốn từ nhưng lại được các nhà nghiên cứu phê bình coi là một tác phẩm. Nó đứng ngang hàng với những bài thơ dài hay những tác phẩm truyện ngắn. Đất là đất còn vàng là vàng, bình thường vàng là thứ quý giá nhất, nó cũng là thứ tài nguyên mà ngày trước biết bao nhiêu đế quốc hùng mạnh đã xâm lược nước ta để cướp đi. Thế nhưng ở đây đất lại quý như vàng.

Bởi vì một tấc đất người nông dân Việt Nam cũng có thể canh tác, trồng trọt, ở. Một tấc đất ấy có thể làm nên sức khỏe, sinh sống, thức ăn cho con người. Có đất thì con người mới có nhà ở, có đất mới có trồng trọt để có thức ăn, có thức ăn mới có thể có sức khỏe và làm ra những thứ quý giá khác.

Chính vì thế, ta có thể khẳng định rằng câu tục ngữ của cha ông để lại hoàn toàn chính xác, nó có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong việc giáo dục các thế hệ mai sau phải biết quý trọng đất. Vì tấc đất là tấc vàng.

b)Nhất nước: Nước là thành phần chính của cây trồng, nước tham gia vào mọi hoạt động sống như quang hợp; vận chuyển, trao đổi chất; định hình cơ thể... nước sạch cho sản phẩn sạch, nước ô nhiễm cho sản phẩm ô nhiễm... Mỗi thời kì sinh trưởng, phát triển cây cần lượng nước khác nhau, thừa thiếu đều không tốt. Không có nước cây không thể duy trì sự sống.
Nhì phân: Phân bón là thức ăn của cây, mỗi giai đoạn cây cần thành phần, tỉ lệ các chất dinh dưỡng khác nhau. Phân bón không thể thiếu trong nông nghiệp hiện đại, đặc biệt với phương pháp trồng cây không cần đất.
Tam cần: Cần cù, chăm chỉ trong lao động chân tay và trí óc. Nông nghiệp hiện đại không chỉ cần những con người chỉ biết 1 nắng hai sương mà còn cần những nhà nông thông thái, chịu khó học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu kiến thức khoa học, kĩ thuật, có kiến thức về thị trường kinh tế nông nghiệp...
Tứ giống: Giống có vai trò quan trọng ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng cây trồng. Cần nghiên cứu tạo giống tốt, phù hợp với địa phương.
Cả 4 yếu tốt trên đều quan trọng và không thể thiếu thì nông nghiệp sẽ phát triển.

11 tháng 7 2016

Nhân dân ta có thói quen vận dụng tục ngữ vào lời nói và việc làm trong cuộc sống để làm cho lời nói thêm hay, thêm sinh động. Sau đây là một số câu tục ngữ đúc kết những nhận xét về các hiện tượng thiên nhiên và nêu lên kinh nghiệm quý giá trong lao động sản xuất:

1.    Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng,
Ngày tháng mười chưa cười đã tối.

2.    Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa.
3.    Ráng mỡ gà, có nhà thì giữ.
4.    Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lại lụt.
5.    Tấc đất, tấc vàng.
6.    Nhất canh trì, nhị canh viên, tam canh điền
7.    Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.
8.    Nhất thì, nhì thục.
Đây chỉ là một số câu được lựa chọn từ kho tàng tục ngữ vô tận. Qua những câu tục ngữ này, chúng ta bước đầu làm quen với kinh nghiệm phong phú, đồng thời học cách nói ngắn gọn, có vần có điệu, dễ nhớ dễ thuộc của người xưa.
Tám câu tục ngữ nêu trên thuộc hai nhóm với hai nội dung có quan hệ chặt chẽ với nhau. Các hiện tượng thiên nhiên như mưa, nắng, bão, lụt… chi phối trực tiếp đến việc trồng trọt, chăn nuôi của nhà nông. Bốn câu đầu nói về thiên nhiên, bốn câu sau nói về lao động sản xuất.
Câu 1: Đây là kinh nghiệm về đặc điểm thời tiết các mua trong năm:
     Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng,
      Ngày tháng mười chưa cười đã tối.
Nghĩa đen của câu tục ngữ này là: tháng năm (Âm lịch), thì đêm ngắn, ngày dài, tháng mười thì đêm dài, ngày ngắn. Cách nói cường điệu có tác dụng nhấn mạnh đặc điểm ấy: chưa nằm đã sáng, chưa cười đã tối. Phép đối xứng giữa hai vế câu làm nổi bật sự trái ngược trong tính chất của đêm mùa hạ và ngày mùa đông.
Câu 2: Là nhận xét và kinh nghiệm phán đoán nắng mưa:
Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa.
 
Câu này có hai vế đối xứng, nhấn mạnh ý: Sự khác biệt về mật độ sao trên bầu trời đêm trước sẽ dẫn đến sự khác biệt về hiện tượng mưa, nắng trong những ngày sau đó.
 
Vế Mau sao thì nắng : Mau có nghĩa là dày, nhiều. Đêm nhiều sao thì hôm sau trời nắng.
 
Về vắng sao thì mưa: vắng có nghĩa là ít, thưa… Đêm ít sao thì ngày hôm sau trời sẽ mưa.
 
Nghĩa cả câu: Đêm trước nhiều sao báo hiệu ngày hôm sau sẽ nắng. Đêm trước ít sao báo hiệu ngày hôm sau sẽ mưa.
 
Kinh nghiệm này được đúc kết từ hiện tượng trông sao đoán thời tiết đã có từ lâu của nông dân ta và nó được áp dụng thường xuyên trong sản xuất nông nghiệp và trong sinh hoạt. Nắm được thời tiết (mưa, nắng) để chủ động sắp xếp công việc. Vì các phán đoán về hiện tượng thiên nhiên phần lớn dựa trên kinh nghiệm cho nên không phải lúc nào cũng đúng.
 
Câu 3: Là kinh nghiệm về hiện tượng thời tiết trước khi có bão:
 
Ráng mỡ gà, có nhà thì giữ.
 
Ráng là màu vàng xuộm của mây do mặt trời chiếu vào. Ráng mỡ gà thường xuất hiện ở phía chân trời trước khi có giông bão. Nó như điềm báo trước để con người biết mà lo chống giữ nhà cửa cho chắc chắn nhằm giảm bớt tác hại ghê gớm do bão gây ra.
 
Câu tục ngữ này đã lược bỏ một số thành phần để thành câu rút gọn, nhấn mạnh vào nội dung chính để mọi người dễ nhớ.
 
Dân gian không chỉ dựa vào hiện tượng ráng mỡ gà mà còn dựa vào hiện tượng chuồn chuồn bay để đoán bão. Câu tục ngữ : Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão cũng đúc kết kinh nghiệm này.
 
Hiện nay, ngành khí tượng đã có nhiều phương tiện khoa học hiện đại để dự báo bão khá chính xác nhưng những kinh nghiệm dân gian vẫn còn tác dụng.
 
Câu 4: Là kinh nghiệm về hiện tượng thời tiết trước khi có lụt:
 
Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lại lụt.
 
Cứ đến tháng bảy (Âm lịch) mà kiến rời khỏi tổ từng đàn lớn, kéo nhau từ chỗ đất thấp lên chỗ đất cao thì nhất định thế nào cũng xảy ra lụt lội.
 
Ở nước ta, mùa lũ thường xảy ra vào tháng tám nhưng có năm kéo dài sang cả tháng chín, tháng mười. Từ thực tế quan sát được nhiều lần, nhân dân tổng kết thành quy luật. Kiến là loại côn trùng rất nhạy cảm với những thay đổi của khí hậu, thời tiết. Khi trời sắp có những đợt mưa to kéo dài, các loại kiến từ trong tổ kéo ra đàn đàn lũ lũ, di chuyển chỗ ờ lên cao để tránh bị ngập nước và để bảo tồn nòi giống.
 
Câu tục ngữ này chứng tỏ người xưa quan sát tỉ mỉ những biểu hiện nhỏ nhất trong thế giới tự nhiên, từ đó rút ra những nhận xét chính xác, lâu dần thành kinh nghiệm. Kinh nghiệm này nhắc nhở mọi người phải chuẩn bị phòng chống lũ lụt sau tháng bảy Âm lịch.
 
Câu 5 : Là nhận xét của nông dân về giá trị của đất đai:
 
Tấc đất, tấc vàng.
 
Hình thức câu tục ngữ này được rút gọn tối đa chỉ còn bốn tiếng chia thành hai vế đối xứng rất dễ hiểu, dễ nhớ. Nội dung của nó nêu bật giá trị của đất đai canh tác.
 
Tấc là đơn vị đo lường cũ trong dân gian bằng 1/10 thước. Đất là đất đai trồng trọt chăn nuôi. Tấc đất: mảnh đất rất ,nhỏ. Vàng là kim loại quý thường được cân đo bằng cân tiểu li, hiếm khi đo bằng tấc thước. Tấc vàng chỉ lượng vàng lớn, quý giá vô cùng. Câu tục ngữ đã lấy cái có giá trị rất nhỏ (tấc đất) để so sánh với cái có giá trị rất lớn (tấc vàng) để khẳng định giá trị của đất đai đối với nhà nông. Nghĩa của cả câu là: một mảnh đất nhỏ bằng một lượng vàng lớn. Đất cũng quý giá như vàng, có khi còn quý hơn vàng.
 
Đất quý giá vì đất nuôi sống con người/ Con người phải đổ bao mồ hôi, xương máu mới có được đất đai. Đất là một loại vàng có khả năng sinh sôi vô tận. Vàng nhiều đến đâu nhưng ngồi không ăn mãi cũng hết (Miệng ăn núi lở), còn chất vàng của đất đai khai thác hết thế hệ này sang thế hệ khác, mãi mãi không bao giờ vơi cạn.
 
Vì thê con người cần sử dụng đất đai sao cho có hiệu quả cao nhất.
 
Người ta có thể sử dụng câu tục ngữ này trong nhiều trường hợp. Chẳng hạn như: để phê phán hiện tượng lãng phí đất; để đề cao giá trị của đất và thể hiện sự gắn bó yêu quý đất đai của người nông dân.
 
Câu 6 : Là nhận xét và kinh nghiệm về hiệu quả của các hình thức chăn nuôi, trồng trọt:
 
Nhất canh trì, nhị canh viên, tam canh điền.
 
Chuyển câu tục ngữ này từ tiếng Hán Việt sang tiếng Việt thì nó có nghĩa là : thứ nhất nuôi cá, thứ nhì làm vườn, thứ ba làm ruộng. Thứ tự nhất, nhị, tam cũng là thứ tự lợi ích của các nghề nuôi cá, làm vườn, trồng lúa mang lại cho người nông dân.
 
Trong các nghề kể trên, đem lại nhiều lợi ích nhất là nuôi cá (canh trì), tiếp theo làm nghề làm vườn (canh viên), sau đó là làm ruộng (canh điền).
 
Bài học rút ra từ câu tục ngữ trên là : Muốn làm giàu, cần phải phát triển nuôi trồng thủy sản. Trong thực tế, bài học này đã được áp dụng triệt để. Nghề nuôi tôm, cá ở nước ta ngày càng được đầu tư phát triển, thu lợi nhuận lớn gấp nhiều lần trồng lúa.
 
Nhưng không phải thứ tự trong câu tục ngữ áp dụng nơi nào cũng đúng mà chúng phụ thuộc vào đặc điểm địa lí tự nhiên của từng vùng. Ở vùng nào có đặc điểm địa lí phong phú thì cách sắp xếp theo trật tự đó là hợp lí nhưng đối với những nơi chỉ thuận lợi cho một nghề phát triển, chẳng hạn nghề làm vườn hay làm ruộng, thì vấn đề lại không như vậy. Nói tóm lại, con người phải linh hoạt, sáng tạo trong công việc để tạo ra nhiều của cải vật chất nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống.
 
Câu 7 : Nội dung câu này khẳng định tầm quan trọng của các yếu tố cần thiết của nghề trồng lúa:
 
Nhất nước, nhị phân, tam cần, tứ giống.
 
Phép liệt kê có tác dụng vừa nêu rõ thứ tự, vừa nhấn mạnh vai trò của từng yếu tố. Các chữ nhất, nhị, tam tứ có nghĩa là: thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư. Nghĩa cả câu là: Thứ nhất là nước, thứ hai là phân, thứ ba là chuyên cần, thứ tư là giống. Kinh nghiệm này được đúc kết từ nghề trồng lúa nước là phải bảo đảm đủ bốn yếu tố : nước, phân, cần, giống, trong đó yếu tố quan trọng hàng đầu là nước. Nước có đủ thì lúa mới tốt, mùa màng mới bội thu.
 
Câu tục ngữ trên giúp người nông dân thấy được tầm quan trọng của từng yếu tố cũng như mối quan hệ chặt chẽ giữa các yếu tố đối với nhau. Bài học kinh nghiệm này rất có ích đối với một đất nước phần lớn dân số sống bằng nghề nông. Nông dân ta còn nhấn mạnh : Một lượt tát! một bát cơm. Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân. Công cấy là công bỏ, công làm cỏ là công ăn…
 
Câu 8: Là kinh nghiệm trong việc trồng lúa nói riêng và trồng trọt các lại cây khác nói chung:
 
Nhất thì, nhị thục.
 
Hình thức câu tục ngữ này đặc biệt ở chỗ nó được rút gọn tối đa và chia làm 2 vế đối xứng. Nội dung nhấn mạnh hai yếu tố thì và thục. Thì: là thời vụ. Thục : là đất canh tác phù hợp với từng loại cây. Nội dung câu tục ngữ này khẳng định trong trồng trọt, quan trọng nhất là thời vụ (thời tiết), thứ hai là đất canh tác.
 
Kinh nghiệm này đã đi sâu vào thực tế sản xuất nông nghiệp ở nước ta. Nghề trồng lúa nhất thiết phải gieo cấy đứng thời vụ và sau mỗi vụ thu hoạch phải tập trung cải tạo đất để chuẩn bị tốt cho vụ sau. Có như vậy thì công sức lao động vất vả của người nông dân mới được đền bù xứng đáng bằng những mùa lúa bội thu.
 
Qua các câu tục ngữ trên, ta có thể rút ra đặc điểm chung về mặt hình thức của chúng là ngắn gọn, thường dùng phép đối, có vần điệu nhịp nhàng nên dễ đọc dễ nhớ. Có những câu không thể thu gọn hơn được nữa (Ví dụ: Tấc đất, tấc vàng). Tuy hình thức tục ngữ ngắn gọn nhưng nội dung của nó cô đọng và hàm súc.
 
Các hình ảnh trong tục ngữ thường cụ thể và sinh động. Người xưa hay sử dụng cách nói thậm xưng để khẳng định nội dung cần thể hiện: Ví dụ: Chưa nằm đã sáng ! chưa cười đã tối ! tấc đất; tấc vàng… Do vậy mà sức thuyết phục của tục ngữ cao hơn.
 
Những kinh nghiệm đúc kết từ các hiện tượng thiên nhiên và trong lao động sản xuất cho thấy từ xưa nông dân nước ta có khả năng trồng trọt và chăn nuôi giỏi. Dựa trên cơ sở thực tế, họ đã đưa ra những nhận xét chính xác về một số hiện tượng thiên nhiên có liên quan trực tiếp đến lao động sản xuất. Từ đó, chủ động trong sắp xếp công việc của mình. Những kinh nghiệm quý báu nêu trên có ý nghĩa thực tiễn lâu dài trong nghề nông. Ngày nay, kinh nghiệm thực tế kết hợp với những thành quả khoa học, kì thuật tiên tiến đã mang lại nhiều lợi ích to lớn cho nông dân và góp phần đưa nước ta vào danh sách một trong những nước hàng đầu về xuất khẩu gạo trên thế giới.
13 tháng 7 2016
Mở bài 
- Tục ngữ là kho tàng trí tuệ, kinh nghiệm của nhân dân lao động.
-  Đó thường là những kinh nghiệm quý báu của cha ông ta đúc kết từ công việc lao động.
Thân bài
- Những câu tục ngữ nói lên kinh nghiệm xem thời tiết : Trong sản xuất nông nghiệp ,thời tiết là yếu tố rất quan trọng chi phối nhiều hoạt động khác do đó người nông dân luôn phải quan tâm nhiều đến thời tiết. Họ ghi lại trong tục ngữ kinh nghiệm xem thời tiết bằng việc quan sát  thiên nhiên ( nêu dẫn chứngvà lập luận về dẫn chứng) - Những câu tục ngữ truyền kinh nghiệm về thời vụ : Đó là những kinh nghiệm tận dụng ưu điểm của thời tiết làm cho cây trồng năng suất cao ( dẫn chứng chứng  và lập luận về dẫn chứng)
- Những câu tục ngữ là những kinh nghiệm quý báu về kĩ thuật sản xuất.
+ Về trồng trọt : ( dẫn chứng chứng  và lập luận về dẫn chứng)
+Về chăn nuôi : ( dẫn chứng chứng  và lập luận về dẫn chứng)
- Những câu tục ngữ giáo dục người ta thái độ đối với lao động.
+ Thái độ đối với đất đai (dẫn chứng chứng  và lập luận về dẫn chứng)
+ Tinh thần lao động (dẫn chứng chứng  và lập luận về dẫn chứng)
- Liên hệ đến ngày nay :
Kết bài 
- Nhiều kinh nghiệm lao động rút ra từ câu tục ngữ vẫn có giá trị cho đến ngày nay.
- Càng tìm hiểu tục ngữ, chúng ta càng khâm phục và quý trọng người lao động xưa.
22 tháng 12 2016

bạn tự làm à

hay thế

23 tháng 12 2016

ko hay chả có hiệp vần của thơ gì cả với lại nó cũng ko phải là thơ