K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

25 tháng 4 2018

Câu 1

Lịch sử giai đoạn 1930 – 1945 đầy biến động, sau nhiều phong trào cách mạng không thành, một không khí chán nản, u hoài, yếm thế bao trùm đời sống. Thanh niên lớn lên không có lí tưởng để phụng sự. Con đường yêu nước bế tắc, họ thoát li trong những tình cảm cá nhân. Trào lưu văn học lãng mạn bắt đầu từ đấy. Đặc điểm chính của trào lưu này là sự đào sâu vào cái tôi nội cảm, diễn tả ước mơ, khát vọng của cá nhân, đề cập đến những số phận cá nhân với thái độ bất hòa, bất lực trước hiện thực tầm thường, tù túng. Đối với hiện thực xã hội, thái độ của nhà văn là thái độ chủ quan, họ nhìn đời qua lăng kính của mình, qua những khát vọng, những mộng tưởng của bản thân. Họ muốn thoát li đời sống, vượt ra khỏi thực tại thỏa sức dùng trí tưởng tượng bay bổng để đối lập hiện thực với ước mơ, lí tưởng nhằm chối bỏ thực tại.

Cũng chính ngột thở trong cái tù đọng, cay đắng, những linh hồn ấy đã tìm thấy chốn nương náu ở miền đất xa xăm do ảo tưởng vẽ ra. Ta thấy một Xuân Diệu trốn chạy trong tình yêu với ngập tràn hương sắc. Một Huy Cận đắm chìm trong mối sầu vạn kỉ với cái mênh mông không cùng. Một Chế Lan Viên u uẩn rên rỉ tìm về một thời hòang kim của vương quốc Chiêm thành nay đã mất. Một Lưu Trọng Lư ru mình trong thế giới mộng tưởng bằng cả tâm hồn sầu mộng. Một Nguyễn Tuân ngụp lặn trong quá vãng với những thú chơi thanh tao của cha ông. Những tôn chỉ “tươi trẻ, yêu đời”, “có chí phấn đấu và tin vào sự tiến bộ”, “tôn trọng tự do cá nhân” trong các tiểu thuyết của Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khải Hưng. Họ đã tạo nên một trường sáng tạo mới, những đóng góp mới. Chính họ dám phủ nhận cái hủ lậu để khai phá những miền đất mà trước đây không dành cho hai từ bản ngã. Họ thay mặt một lớp người như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ để nói tiếng nói tự do, giải phóng cho hạnh phúc con người và khẳng định cái tôi cá nhân. Họ khướt từ mọi thi pháp cũ để giải phóng cảm xúc... Tầng lớp trí thức Tây học đã chấp nhận những ảnh hưởng từ văn hóa phương Tây để tạo ra một con đường đi rất riêng của mình và tạo dựng một phong cách nghệ thuật cũng rất riêng của mình.

Nói tới văn học lãng mạn không thể không bàn tới cánh chim đầu đàn của trào lưu này, đó chính là Xuân Diệu - một ông Tây, một phong cách thơ độc đáo của làng thơ Việt Nam.

Có thể nói, nhà thơ, nhà văn có thực tài mới có phong cách. Phong cách chỉ có thể được định hình qua hàng loạt tác phẩm xuất sắc. Phong cách nghệ thuật thực chất là một cái nhìn mới mẽ, độc đáo có tính phát hiện đối với đời sống. Cái nhìn mới mẽ ấy được thể hiện bằng một bút pháp nghệ thuật đặc sắc mang dấu ấn riêng, vẻ đẹp riêng, cá tính riêng của người sáng tạo.

Ngay từ khi mới xuất hiện, Xuân Diệu đã được đánh giá là “mới nhất trong các nhà thơ mới”. Khi tập Thơ thơ ra mắt độc giả năm 1938 cái mới đã được biểu hiện ở mọi mặt. Từ quan điểm, cách dùng từ đến ngôn ngữ, cấu tứ thơ. Cái mới được thể hiện qua cách diễn đạt, dùng từ như “Hơn một loài hoa đã rụng cành”, từ xưa đến nay người Việt Nam vốn dùng số đếm cụ thể 1, 2, 3... chứ chưa thấy ai nói “hơn một” với phong cách Tây đến vậy!. Không chỉ mới ở cách dùng từ Xuân Diệu còn thể hiện cái mới của mình trong quan niệm về thời gian. Với ông, thời gian là tuyến tính, một đi không trở lại. Xuân Diệu bị ám ảnh trước sự trôi chảy của thời gian :

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.

( Vội vàng )

Thời gian mang theo vẻ đẹp, tuổi trẻ và làm thay đổi lòng người nên ông lo sợ “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi” ( Vội vàng ), “ Đời trôi chảy tình ta không vĩnh viễn”( Giục giã ). Cũng vì ám ảnh bởi thời gian nên Xuân Diệu rất yêu mùa xuân – mùa của tình yêu, tuổi trẻ và sợ mùa thu buồn. Mùa xuân với thi sĩ luôn ngập tràn sức sống, niềm vui, hạnh phúc: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”, “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi !” ( Vội vàng ). Mùa thu trong thơ Xuân Diệu thường rất buồn :

Dưới gốc nào đâu thấy xác ve

Thế mà ve đã tắt theo hè

Chắc rằng gió cũng đau thương chứ;

Gió vỡ ngoài đê, thu có nghe?

( Ý thu )

Lo lắng biến thành hành động, nhà thơ chủ trương sống “vội vàng”, sống gấp để tận hưởng, tận hiến : “Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”

( Vội vàng )

Mau với chứ vội vàng lên với chứ.

Em em ơi tình non sắp già rồi !

(Gịuc giã ).

Bên cạnh đó, nói đến Xuân Diệu là phải nhắc đến chữ Yêu. Tình yêu đó trước hết là tình yêu trong sáng, nồng nàn say đắm của lứa đôi:

Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh.

Anh nhớ em, anh nhớ lắm ! em ơi...

( Tương tư chiều )

Đồng thời cũng hướng về một tình yêu đích thực:

Dẫu tin tưởng: chung một đời, một mộng

Em là em anh vẫn cứ là anh

Có thể nào qua Vạn Lí Trường Thành

Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật

( Xa cách )

Tuy vậy, tình yêu trong thơ Xuân Diệu không chỉ đơn thuần là tình yêu đôi lứa mà rộng ra đó còn là tình yêu thiên nhiên, vạn vật, con người, cuộc sống. Tình yêu ấy luôn rạo rực, nồng nàn, mê đắm. Phải chăng đó chính là lí do Xuân Diệu được mệnh danh là hoàng tử thơ tình trong thơ ca Việt Nam.

Như vậy, có thể nói Xuân Diệu ngay tù khi bước chân vào làng thơ đã khẳng định sự mới mẽ, lôi cuốn của mình.

Thơ văn Xuân Diệu giai đoạn 1930 – 1945 luôn tận hiến cho quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” :

Là thi sĩ nghĩa là ru với gió

Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây

Để tâm hồn ràng buộc với muôn dây

( Cảm xúc )

Và rồi xuân Diệu đã khẳng định tên tuổi của một nhà thơ lớn với phong cách nghệ thuật lãng mạn độc đáo của mình.

Quả thực, quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật” – thật sự cất cánh với những tác phẩm đã thành biểu tượng cho cái “ Mĩ ”, và đặc biệt hơn cái “ Mĩ ” ở đây chính la con người. Chính sự quay lưng với thực tại xã hội “ối a ba phèng” cũng là cách giúp họ - những nhà thơ nhà văn lãng mạn giữ cho mình trong sạch. Đồng thời tạo nên một trào lưu mới với những nét đặc sắc hòa vào những cung bậc của nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.

25 tháng 4 2018

Bác là người rất yêu thiên nhiên và có khát vọng tự do. Trăng và người trong mối giao cảm tri âm, tri kỉ. Người hướng ra ngoài song sắt để đến với trăng, và trăng theo người toả sáng vào trong tù. Con người và ánh trăng này rõ ràng là hết sức mới mẻ, hiện đại. Trăng và người như hai người bạn cùng yêu nhau, vượt qua các song sắt tàn bạo, cái hoàn cảnh khổ đau, ngăn trở của nhà tù. Nhất là trong hoàn cảnh cụ thể của người làm thơ, ánh trăng và tư thế vọng nguyệt kia biểu hiện chất thép của một người chiến sĩ cách mạng, đứng ở trên mọi gian khổ tù đày. Có thể nói rằng, Bác đã đưa ánh trăng toả sáng vào trong nhà tù hay chính tâm hồn người đã toả sáng trên vầng trăng của bài thơ này.

1.Đoạn trích là phần mở đầu bài Bình ngô đại cáo. Đoạn này có ý nghĩa nêu tiền đề cho toàn bài, tất cả nội dung được phát triển về sau đều xoay quanh tiền đề đó. Theo em, khi nêu tiền đề, tác giả đã khẳng định những chân lí nào?2. Qua hai câu “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân- Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, có thể hiểu cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là...
Đọc tiếp

1.Đoạn trích là phần mở đầu bài Bình ngô đại cáo. Đoạn này có ý nghĩa nêu tiền đề cho toàn bài, tất cả nội dung được phát triển về sau đều xoay quanh tiền đề đó. Theo em, khi nêu tiền đề, tác giả đã khẳng định những chân lí nào?

2. Qua hai câu “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân- Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, có thể hiểu cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là gì? Người dân mà tác giả nói tới là ai? Kẻ bạo ngược mà tác giả nói tới là kẻ nào?

3.Để khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc, tác giả đã dựa vào những yếu tố nào? Nhiều ý kiến cho rằng, ý thức dân tộc ở đoạn trích Nước Đại Việt ta là sự tiếp nối và phát triển ý thức dân tộc ở bài thơ Sông núi nước Nam (đã học ở lớp 7), vì sao? Để trả lời câu hỏi này, hãy tìm hiểu xem những yếu tố nào đã được nói tới trong Sông núi nước Nam và những yếu tố nào mới được bổ sung trong Nước Đại Việt ta.

4. Hãy chỉ ra những nét đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích và phân tích tác dụng của chúng. (Gợi ý: cách dùng từ, cách sử dụng câu văn biền ngẫu, biện pháp liệt kê, so sánh, đối lập,… có hiệu quả)

5*. Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi là ở chỗ kết hợp giữa lí lẽ và thực tiễn. Qua đoạn trích trên, hãy chứng minh.

6*. Thử khái quát trình tự lập luận của đoạn trích “Nước Đại Việt ta” bằng một sơ đồ.

0
7 tháng 3 2022

Em tham khảo nha:

Nguồn: Hoidap247

 Với việc sử dụng liên tiếp các  tác giả từ ngữ biểu cảm vừa tăng tính nhịp điệu cho câu thơ vừa gợi mở ra hình ảnh tươi đẹp giữa Người và trăng. Ôi! (Câu cảm thán) Với tinh thần yêu thiên nhiên cùng tâm hồn lạc quan, ung dung, Bác vẫn ngắm nhìn vẻ đẹp của trăng qua song sắt của nhà tù. Hơn hết, với thủ pháp nhân hóa "Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ", Người đã giúp hình ảnh được nhân hóa là "trăng" như có hồn hơn, mang những hành động như con người. Chưa dừng lại ở đó, nó còn khẳng định sự gắn bó, yêu thương giữa trăng và Người, giữa thiên nhiên và con người. 

7 tháng 3 2022

Tham khảo:

            Ở bài thơ ta thấy biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong câu thơ là nhân hoá "trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ" và điệp từ "trăng". Mục đích và tác dụng các biện pháp nghệ thuật làm câu thơ thêm sinh động, giàu sức gợi hình, gợi cảm. Đồng thời, ta thấy được sự gắn bó giữa thi nhân và vầng trăng. Ôi, đó là thứ tình cảm được nhà thơ gửi gắm trong vầng trăng, trong thiên nhiên tươi là sự yêu quý,  say mê, trân trọng ngay trong ngục tù tăm tối.

- Cảm thán: Ôi.
Câu 1: Đọc kĩ đoạn văn sau rồi thực hiện yêu cầu bên dưới:'' Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối;ruột đau như cắt , nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da , nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ , nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng''a/ Đoạn văn trên đc trích từ tác phẩm nào ? Ai là tác giả của tác phẩm đó.?b/Xác định...
Đọc tiếp

Câu 1: Đọc kĩ đoạn văn sau rồi thực hiện yêu cầu bên dưới:

'' Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối;ruột đau như cắt , nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da , nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ , nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng''

a/ Đoạn văn trên đc trích từ tác phẩm nào ? Ai là tác giả của tác phẩm đó.?

b/Xác định biện pháp nghệ thuật trong đoạn trích và phân tích tác dụng?

Câu 2: Viết đoạn văn diễn dịch khoảng 12 câu trong đó có 1 câu cảm thán ,phân tích khổ thơ sau:

''Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng.

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm,

Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm 

Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ''

Câu 3: 1 số bạn của em đang đua đòi theo lối ăn mặc ko lành mạnh .Em hãy viết 1 bài văn nghị luận để thuyết phục các bn đó thay đổi cách ăn mặc cho đúng đắn hơn.

2
5 tháng 8 2021
Câu1 Đoạn văn trích trong văn bản "Hịch tướng si"-Trần Quốc Tuấn Trong đoạn văn tác giả sử dụng biện pháp tu từ liệt kê "tới bữa qyên ăn,nửa đêm vỗ gối,ruột đau như cắt,nc mắt đầm đìa,chỉ căm tức chx xả thịt lột da luốt gan,uống máu quân thù" Td:tạo sự cân xứng nhịp nhàng cho lời văn đồng thời diễn tả sâu sắc trân thực nỗi lòng của vị chủ tướng hết lòng vì nước, vì dân
5 tháng 8 2021
Câu 2-3 tự lm nha 😁
16 tháng 12 2016

Linh Phương ơi giúp mk câu này vshuhu