Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
THAM KHẢO!
Hai câu thơ có sức gợi sâu sắc mở ra bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà, khi những ánh sáng của một ngày đang dần yếu ớt, tàn lụi. Đó là thời khắc cuối cùng của một ngày và với người tù nhân, đó cũng là chặng cuối cùng của một ngày đày ải. Thời gian và hoàn cảnh như thế gây nên trạng thái mệt mỏi, chán chường vậy mà ở đây cảm hứng của Bác thật tự nhiên. Dường như người tù lúc ấy đang ngước mắt lên nhìn bầu trời và chợt thấy cánh chim mệt mỏi bay về tổ ếm, chòm mây chầm chậm trôi qua lưng trời. Khung cảnh thiên nhiên được khắc họa bằng những nét chấm phá (dùng điểm để nói diện) không tả mà người đọc vẫn cảm thấy được cái âm u, vắng vẻ, quạnh hiu và mang dư vị buồn của cảnh vật. Trong thơ ca cổ điển phương Đông, cánh chim bay về tổ, về núi rừng thường mang ý nghĩa biểu tượng cho buổi chiều tà. Đó là hình ảnh “Chim bay về núi tối rồi” trong ca dao; là cánh “Chim hôm thoi thót về rừng” trong Truyện Kiều. Cánh chim đó vừa mang ý nghĩa không gian lại vừa có ý nghĩa thời gian. Cánh chim có nét tương đồng với tình cảnh của người tù: Suốt một ngày bay đi kiếm ăn, cánh chim đã mỏi, chỉ mong muốn “tầm túc thụ” – tìm một nơi yên bình nào đó để nghỉ ngơi và người tù thì cũng đã mệt mỏi rã rời sau một ngày chuyển lao vất vả. Trong ý thơ ấy có biết bao sự hòa hợp, cảm thông giữa tâm hồn nhà thơ với thiên nhiên, cảnh vật. Cội nguồn của sự cảm thông ấy chính là tình yêu thương mênh mông mà Người giành cho mọi sự sống trên đời. Góp thêm vào bức tranh của buổi chiều thu còn là cảnh: “Chòm mây lơ lửng giữa tầng không”. Câu thơ dịch tuy hay nhưng làm mất đi chữ ‘cô” – “cô vân”, làm cho chòm mây dường như mất đi cái cô đơn, lẻ loi trên nền trời bao la. Cụm từ “cô vân” có sức gợi hình ảnh bầu trời càng rộng lớn, bao la bao nhiêu thì cái cô đơn, lẻ loi của chòm mây càng được đặc tả bấy nhiêu. Với chòm mây ấy, không gian như mênh mông vô tận và thời gian như thể ngừng trôi. Cánh chim, chòm mây cô lẻ đó có vẻ gì tương đồng với người tù đang trên đường chuyển lao khổ ải: lẻ loi trong cảnh tù đày và khát khao được trở về đất nước.
Tham khảo nha bạn:
Huy Cận là một nhà thơ tiêu biểu trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Trong số những tác phẩm mà ông để lại cho đời thì nổi bật nhất có lẽ là "Tràng giang". Thi phẩm đã tái hiện xuất sắc vẻ đẹp của thiên nhiên khi hoàng hôn buông xuống đồng thời nói lên tâm trạng buồn man mác của nhà thơ. Ngay từ những vần thơ đầu tiên, thi sĩ đã mở ra một không gian rộng lớn với "lớp lớp" những đám mây cao đang lững thững trôi trên bầu trời. Xa xa là những ngọn núi nhấp nhô, nối tiếp nhau. Trong không gian ấy, xuất hiện hình ảnh của những cánh chim với hình bóng nhỏ bé "bóng chiều sa". Câu thơ gợi một không gian lắng động, ẩn chứa nỗi buồn, sầu đọng của Huy Cận. Câu thơ đã một ra một bức tranh đượm buồn, chất chứa đầy tâm trạng, cảm xúc của thi nhân. Thật vậy, trong thơ xưa, khi đến khung cảnh chiều tà thường gợi sự đượm buồn sâu lắng. Thơ của Huy Cận cũng không phải ngoại lệ. Thật vậy, bài thơ Tràng giang là một bức tranh thiên nhiên ảm đạm, bộc lộ chân thực những suy tư trong lòng Huy Cận.
TK:
– Tràng giang gợi một nỗi buồn cô đơn, lạc lõng trước cảnh trời nước mênh mông, cao rộng bất tận, nhưng trống trải, hoang vắng, xa lạ, hững hờ và vô định. Toàn cảnh trời rộng sông dài tuyệt nhiên không có một bóng người, không có dấu vết của sự giao lưu thân mật, gần gũi: không một chuyến đò ngang, không một chiếc cầu để gợi chút niềm thân mật, "không một chút ấm áp của sự sống" (Huy Cận).
– Hai câu thơ đầu trong khổ thơ cuối khắc họa lại cảnh tượng rực rỡ, kì vĩ khi mặt trời xuống thấp, hắt ánh sáng lên các lớp mây cao cuồn cuộn đùn ra như những núi bạc:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Tác giả rất thích chữ "đùn", tả mây như có sức đẩy ở bên trong, cứ trồi ra hết lớp này đến lớp khác.
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Ba chữ bóng chiều sa in lên núi bạc đùn lên, còn dáng chim nghiêng cánh nhỏ tương phản với lớp lớp, núi bạc, càng trở nên nhỏ nhoi, cô độc.
Hai câu thơ đẹp trong hình ảnh là linh hoạt trong nhịp bước của thời gian. Không gian vừa mới vươn trải mênh mông trong dáng (lấp ngàn mây lớp lớp chất chồng, chợt ập xuống hoàng hôn.
Trong tập thơ “Nhật kí trong tù” của tác giả Hồ Chí Minh, bài thơ “Chiều tối” đã thể hiện được nổi bật và sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn của tác giả. Đây là bài thơ số 31 trên tổng số 134 bài của “Nhật kí trong tù”, là một trong năm bài thơ được Người sáng tác trên đường chuyển lao từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo. Qua bài thơ, vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ đã được khắc họa rõ nét qua cách cảm nhận về thiên nhiên, cũng như ý nghĩa của toàn bộ bài thơ.
Hồ Chí Minh là một con người yêu đời, yêu thiên nhiên, nhạy cảm trước những biến thái tinh vi của tạo vật:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
Tác giả đã gợi ra thời gian vào buổi chiều tà. Thời điểm buổi chiều tối thường gợi buồn, nhất là trong hoàn cảnh Bác đang ở trên đất khách quê người trong cảnh mệt mỏi, lê bước trong chặng đường chuyển lao. Buổi chiều là quãng thời gian gợi cảm xúc của con người nhất trong một ngày, nó gợi sâu sắc nỗi nhớ về sự đoàn tụ. Bác cảm nhận về cánh chim và chòm mây. Độc giả đã bắt gặp rất nhiều những bài thơ viết về cánh chim, những hình ảnh cánh chim trong bài thơ này lại là cánh chim mệt mỏi. Bên cạnh đó, hình ảnh chòm mây như chính là hình ảnh của tác giả và niềm khao khát tự do của người chiến sĩ cộng sản. Hai câu thơ trên gợi ra cho người đọc hình ảnh một người chiến sĩ, với tư thế ung dung, hòa hợp với thiên nhiên, thể hiện niềm khao khát tự do của con người. Trong hoàn cảnh bị trói buộc về mặt thể chất, nhưng tác giả vẫn có sự giải thoát về mặt tinh thần. Bác vẫn có một tinh thần lạc quan, vẫn có những quan sát, cảm nhận tinh tế đối với sự chuyển động của cảnh vật thiên nhiên.
Hồ Chí Minh là một người mang trong mình tính yêu thương sâu sắc, dù trong bất kì hoàn cảnh nào cũng luôn có sự đồng cảm:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng)
Bác Hồ thể hiện sự chia sẻ nỗi vất vả của cô gái xay ngô nơi xóm núi, vui với niềm vui lao động của cô. Nếu như trong các bài thơ thất ngôn tứ tuyệt của Thơ Đường, có xuất hiện hình ảnh những người phụ nữ, nhưng họ thường xuất hiện ở trong sự khuê các. Còn Hồ Chí Minh, Người lại nêu ra hình ảnh người phụ nữ trong lao động một cách thật tự nhiên.
Bên cạnh đó, độc giả còn thấy được vẻ đẹp của niềm lạc quan bất diệt xuyên suốt cả bài thơ. Trong một bài thơ, từ hình tượng thơ ta có thể nhận ra tư tưởng của tác giả đều có sự vận động nhất quán, hướng tới sự sống tương lai. Tâm trạng có sự vận động từ buồn đến vui, từ cô đơn, lẻ loi đến ấm áp. Hình ảnh cánh chim đượm buồn nhưng là cánh chim bay về tổ, gợi một chút gì đó ấm áp của sự đoàn tụ. Chòm mây cô đơn gợi nỗi buồn lẻ loi, nhưng chòm mây ấy lại “mạn mạn độ thiên không” gợi một tâm hồn khoáng đạt, một phong thái ung dung, tự tại, làm chủ mình trong mọi hoàn cảnh. Từ hình ảnh cánh chim và chòm mây vận động, chiếc cối xay ngô của cô gái vùng sơn cước cũng vận động. Thời gian trôi dần theo cánh chim và chòm mây theo những vòng xoay của cối xay ngô, quay mãi, và đến khi “bao túc ma hoàn” thì “lô dĩ hồng”. Bình luận về chữ “hồng”, đây được coi là nhãn tự của bài thơ, nó nằm ở cuối bài nhưng lại gánh được 24 chữ kia, và mang lại thần sắc cho bài thơ.
Qua bài thơ “Chiều tối”, ta cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ cộng sản, giàu tình yêu thương, luôn nâng niu mọi sự sống trên đời, lạc quan hướng về ánh sáng.
tk
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xây hết lò than đã rực hồng
Nếu như nói về cảnh thì sự chuyển cảnh trong Câu thơ này cũng rất đỗi tự nhiên. Khi đêm đã buông xuống, tấm màn đen của nó đã bao trùm lên toàn cảnh vật thì nhà thơ chỉ có thể hướng tầm nhìn về phía có ánh sáng. Đó chính là ánh sáng soi tỏ hình ảnh một cô thôn nữ xay ngô để chuẩn bị bữa cơm chiều.
Ở câu thơ thứ ba, người dịch đã thêm chữ “tối” Không có trong nguyên tác. Từ nay không sai nhưng lại làm cái tinh tế của bài thơ mất mát đi ít nhiều. Nó vừa làm lộ ý thơ, vừa khiến cho nội dung kém đi sự gợi mở.
Lê Chí Viễn còn phát hiện ra thêm một điểm vô cùng tinh vi ở câu thơ này. Đảo ngữ “ma bao túc” “bao túc mà hoàn” khiến cho câu thơ trở nên thật hấp dẫn và đặc biệt. Thời gian trôi tình theo cánh chim và làn mây, theo những vòng xoay ngô cuối của người thiếu nữ, quay mãi, quay mãi và đến khi cô ấy phải dừng lại thì lo than đã rực Hồng, nó dịch lên một thứ ánh sáng tuyệt đẹp. Thứ ánh sáng tỏa ra từ phía lò than kia không chỉ là thứ ánh sáng thắp lên trong đêm tối tăm, mịt mù mà còn là ánh sáng của niềm tin, của hy vọng mà Bác vẫn luôn luôn tin tưởng và gửi gắm. Đọc thơ Bác, buồn nhưng vẫn tràn ngập niềm tin và hy vọng có lẽ là vì vậy.
Hai câu thơ đầu là cảnh buồn, cảnh chiều muộn với hình ảnh cánh chim và con người đều mỏi mệt trước giờ khách tàn lụi nhưng hai câu thơ sau lại là một niềm vui, một niềm tin háo hức, mong chờ qua hình ảnh đúng lửa hồng. Chỉ một hình ảnh nhỏ nhưng lại có thể cân chỉnh cả bài thơ, khiến cho bài thơ sáng rực lên sự ấm áp. Sự sống, ánh sáng và niềm vui của con người được hiện lên ở trung tâm của bức tranh được nhà thơ vẽ ra đã tỏa sáng, xua tan cái cô quạnh, cái mệt mỏi của cảnh chiều nơi núi rừng.
Nguyễn Du đã từng nói: “ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Chân lý ấy khá ứng với hai câu thơ đầu tiên. Nhưng ở hai câu thơ này, ta phải nhấn mạnh rằng do cảnh buồn nên người cũng muốn buồn theo. Tuy vậy, ở hai câu thơ sau thì niềm vui đã quay trở lại. Sự hy vọng, niềm tin thông qua hình ảnh gọi lửa hồng đã khiến cho bài thơ trở nên vui tươi và dạo dực hơn hẳn…
Mới biết mọi niềm vui, nỗi buồn của Bác hồ đều gắn bó với niềm vui, nỗi buồn của đất nước. Quyền hành nỗi bất hạnh của riêng mình, của tù ngục, khổ đau, Bác vẫn đau đầu lo cho nước nhà…
Bạn tham khảo nhé:
Hai câu thơ cuối bài Chiều tối sử dụng bút pháp cổ điển từ "Hồng" chính là nhãn tự của bài thơ. nó là hình ảnh bị dị nhưng vô cùng chân thực được tác giả ghi lại một cách tinh tế, sâu sắc. Hình ảnh con người hiện lên khi đang làm việc gợi lên sức sống mãnh liệt, vẻ đẹp giản dị của cô gái khi đang làm việc thể hiện một cuộc sống thanh bình, yên vui của núi rừng sơn cước. Hình ảnh bếp lửa lò than rực hồng mang lại cho bài thơ một luồng sinh khí mới, nó làm cho cả bài thơ như sáng bừng lên, ấm áp sự sống mới tươi vui, bình yên của nhịp sống con người. Đồng thời nó cũng thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời trong thơ của Hồ Chí Minh, dù trong hoàn cảnh bị tù đày mệt mỏi, bởi sự áp giải của chế độ Tưởng Giới Thạch nhưng Bác không hề nao núng hay tỏ thái độ lo lắng sợ hãi.
- Giới thiệu được vài nét về tác giả, tác phẩm, đoạn trích
- Giới thiệu được vấn đề cần nghị luận: Khung cảnh thôn Vĩ và tâm trạng của tác giả.
Khổ 1:Cảnh ban mai thôn Vĩ và tình người tha thiết.
Câu 1: Câu hỏi tu từ mang nhiều sác thái: Lời hỏi, lời mới, lời trách nhẹ nhàng.
Ba câu sau gợi vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên thôn Vĩ trong khoảnh khắc hừng đông
Tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên, con người tha thiết cùng niềm băn khoăn, day dứt của tác giả.
Khổ 2:Cảnh hoàng hôn thôn Vĩ và niềm đau cô lẻ, chia lìa
Hai câu đầu bao quát toàn cảnh với hinh ảnh gió , mây chia lìa đôi ngả, dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay gợi nỗi buồn hiu hắt.
Hai câu sau tả dòng Hương Giang trong đêm trắng lung linh, huyền ảo vừa thực vừa mộng
Tâm trạng đau đớn khắc khoải và khát khao cháy bỏng của nhà thơ
Bức tranh phong cảnh Vĩ Dạ, lòng yêu đời, ham sống, đầy trắc ẩn của nhà thơ
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
"Thiên nhiên, tạo vật buồn nhưng đôi lúc bộc lộ vẻ đẹp kì vĩ, lạ lùng", đó là lời tự bình của tác giả về hai câu thơ này.Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.
Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.Cánh chim chiều nghiêng bóng trước hoàng hôn, một cánh chim nhỏ nhoi lẻ loi trên bầu trời bao la rộng lớn, thể hiện sự cô liêu khắc khoải. Cánh chim chiều chao nghiêng kia phải chăng chính là hiện thân của tác giả lúc này, đang cảm thấy trào dâng nghiêng ngả những cơn sóng lòng. Đang cảm thấy mình lẻ loi, cô đơn trước cuộc đời bao la rộng lớn.
Bạn tham khảo nhé:
Buổi chiều thường là lúc đoàn tụ, nhưng cũng là khi con người ta thấy vô cùng cô đơn nếu không có một chốn để về. Cánh chim mỏi sau một ngày kiếm ăn cũng đã bay về tổ của mình. Trên không trung chỉ còn lững lờ một chòm mây. Giữa thiên nhiên bao la hùng vĩ, con người và cảnh vật đều như dừng lại, chỉ có chòm mây ấy vẫn nhẹ nhàng trôi, càng làm nổi bật lên sự yên ắng, êm ả của buổi chiều tối nơi rừng núi. Chòm mây ấy cũng giống như Bác, đang trong tình cảnh tù tội, vẫn phải cô độc bước đi. Chòm mây cô đơn, lặng lẽ, Bác cũng lặng lẽ, cô đơn. Tuy thế, phải là một người có lòng yêu thiên nhiên, phải có một tâm thái ung dung, bình tĩnh, lạc quan, vượt lên mọi gông cùm về thể xác để ngắm thiên nhiên, hòa mình với thiên nhiên như thế. Thân xác mỏi rã rời vì phải đi cả ngày đường vất vả, nhưng Bác vẫn dõi mắt theo cánh chim về tổ, tầng mây lững lờ trôi lúc chiều về. Tuy chỉ hai câu thơ bảy chữ, nhưng cũng đã khiến cho người đọc tưởng tượng ra được cảnh chiều muộn nơi rùng núi thật mênh mông, âm u, vắng vẻ, quạnh quẽ. Đồng thời, cũng nói lên niềm mong ước quay trở về với quê hương, ước mong được tự do như đám mây kia.
đây là bài chiều tối mà
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại, là nhà chính trị tài ba, là nhà văn hóa của nhân loại. Bác để lại rất nhiều tác phẩm đặc sắc, nổi bật trong số đó là bài thơ "chiều tối" trang tập thơ "Ngục trung nhật ký". Bài thơ là bức tranh thiên nhiên cuộc sống con người và qua đó thấy được vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh dù hoàn cảnh khắc nghiệt đến đâu vẫn luôn hướng về sự sống ánh sáng.
Thật vậy, hai câu thơ đầu là bức tranh thiên nhiên và tâm hồn, ý chí nghị lực của Người.
"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không"
"Chim mỏi" là cánh chim mệt mỏi sau một ngày vất vả kiếm ăn. Nhưng ở nguyên tắc là "quyện điểu" nghĩa là chim trở về, trở lại, "lầm tác thụ" là về rừng tìm chốn ngủ.
Cánh chim chưa được dịch sát nghĩa, chưa làm nổi lên được bút pháp nghệ thuật độc đáo. Từ đó ta thấy được khung cảnh chiều tối làm người ta nhớ đến quê hương, gia đình, thiên nhiên yên bình ấm áp.
Cách chim là một hiện thân thuộc trong thơ Đường, thơ ca cổ khiến bài thơ mang vẻ đẹp cổ điển. Kết hợp điểm nhìn thiên nhiên từ thấp lên cao gợi cảm nhận về thiên nhiên bao la rộng lớn.
"Chòm mây trôi nhẹ" được dịch là "cô vân mạn mạn" không sát nghĩa. "Cô vân" là một chòm mây, một đám mây cô đơn. "mạn mạn" là lững lờ, nhẹ nhàng làm hiện lên một bầu trời cô đơn, ba la rộng lớn, phóng khoáng.
Bằng điểm nhìn từ thấp lên cao kết hợp với lối chấm phá đơn sơ chỉ một chòm mây, một cánh chim trời, Hồ Chí Minh đã bao quát được cả một không gian bao la. Đó là cảnh trời mây, rừng núi miền Quảng Tây Trung Quốc lúc trời chiều thật bao la, yên bình, thân thương.
Mặc dù trong hoàn cảnh đầy ải hết sức gian nan vất vả, bị xiềng xích chân tay, đi dăm ba cây số đường rừng mỗi ngày. Trời chiều với đất khách quê người thông thường người ta có tâm trạng mệt mỏi, chán chường, chạnh lòng buồn nhớ quê hương gia đình, thế nhưng người tù Hồ Chí Minh vẫn cảm nhận được vẻ đẹp bao la, phóng khoáng, yên bình, ấm áp, thân thương cả Miền Quảng Tây.
Qua đó, có thể thấy Hồ Chí minh là người có tâm hồn nhạy cảm, giao hòa với thiên nhiên đồng thời là người có ý chí nghị lực, quên đi hoàn cảnh đầy ải cực nhọc của mình để vui vẻ, để ngắm nhìn cảnh vật thiên nhiên và thả hồn mình bay bổng cùng với một chòm mây, một cánh chim trời.