K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

24 tháng 8 2021

Mỗi ngày đến trường là một ngày vui, em đến trường được học biết bao nhiêu điều hay, và muốn học tốt nữa thì về nhà em cũng phải học bài. Chính vì thế mà bố em cũng đã mua cho em một chiếc bàn học thật xinh xắn. Và cái bàn học xinh xắn của em lại được đặt kề cửa sổ nhìn ra vườn cây xanh rợp bóng.

Bàn học được bố em mua về đã được làm bằng gỗ công nghiệp, mặc dù chưa phải là gỗ tốt nhưng nhờ được đánh véc-ni nên rất bóng loáng và đẹp đẽ. Chiếc bàn lại còn có cùng màu nâu sẫm như ghế và giá sách. Mặt bàn học của em có hình chữ nhật, còn với bề dài đúng một sải tay em còn bề rộng bề rộng em đo được 3 gang tay của em như lại hơi dốc xuống một chút về phía em đặt ghế, chính điều này cũng như đã tạo tư thế thoải mái khi em ngồi viết. Chiếc bàn có màu vàng vangf của véc-nin thật đẹp, những hình như vân gỗ nổi lên cũng đẹp.

Còn về phí mép bàn phía trước có một đường rảnh dài, và nó như lại bị lõm xuống giúp em đựng bút, thước, tẩy… hay những đồ vật nho nhỏ như không bị lăn xuống theo độ dốc của bàn. Phía bên dưới mặt bàn là một ngăn hộc khá rộng, ngăn bàn này em có thể kéo ra đóng vào dễ dàng khi nắm vào cái tay cầm bằng sắt thật là tiện dụng biết bao nhiêu. Trong ngăn bàn em có thể để chiếc cắp sách như chiếc bàn ở trường vậy. Nhưng chiếc bàn học này em lại để giấy thủ công, còn chiếc cặp lại có một chỗ treo ngay ở rìa chiếc chân bàn thật vững chắc kia. Bàn học của em có 4 chân thật là chắc chắn, cho dù em có để nhiều sách đi chăng nữa thì nó cũng không hề lay chuyển. Bàn chắc chắn cho em yên tâm học bài.


 

Mỗi ngày đến trường là một ngày vui, em đến trường được học biết bao nhiêu điều hay, và muốn học tốt nữa thì về nhà em cũng phải học bài. Chính vì thế mà bố em cũng đã mua cho em một chiếc bàn học thật xinh xắn. Và cái bàn học xinh xắn của em lại được đặt kề cửa sổ nhìn ra vườn cây xanh rợp bóng.

Bàn học được bố em mua về đã được làm bằng gỗ công nghiệp, mặc dù chưa phải là gỗ tốt nhưng nhờ được đánh véc-ni nên rất bóng loáng và đẹp đẽ. Chiếc bàn lại còn có cùng màu nâu sẫm như ghế và giá sách. Mặt bàn học của em có hình chữ nhật, còn với bề dài đúng một sải tay em còn bề rộng bề rộng em đo được 3 gang tay của em như lại hơi dốc xuống một chút về phía em đặt ghế, chính điều này cũng như đã tạo tư thế thoải mái khi em ngồi viết. Chiếc bàn có màu vàng vangf của véc-nin thật đẹp, những hình như vân gỗ nổi lên cũng đẹp.

Còn về phí mép bàn phía trước có một đường rảnh dài, và nó như lại bị lõm xuống giúp em đựng bút, thước, tẩy… hay những đồ vật nho nhỏ như không bị lăn xuống theo độ dốc của bàn. Phía bên dưới mặt bàn là một ngăn hộc khá rộng, ngăn bàn này em có thể kéo ra đóng vào dễ dàng khi nắm vào cái tay cầm bằng sắt thật là tiện dụng biết bao nhiêu. Trong ngăn bàn em có thể để chiếc cắp sách như chiếc bàn ở trường vậy. Nhưng chiếc bàn học này em lại để giấy thủ công, còn chiếc cặp lại có một chỗ treo ngay ở rìa chiếc chân bàn thật vững chắc kia. Bàn học của em có 4 chân thật là chắc chắn, cho dù em có để nhiều sách đi chăng nữa thì nó cũng không hề lay chuyển. Bàn chắc chắn cho em yên tâm học bài.

Xem thêm:  Kể lại câu chuyện Cây tre trăm đốt theo lời kể anh Khoai

Và cứ mỗi khi học xong em thường thu dọn sách vở và các thứ trên mặt bàn cho gọn ghẽ rồi lau bàn bằng khăn vải mềm cho thật là sạch. Em không bao giờ viết hay vẽ bậy nên bàn. Vì em em quý chiếc bàn này và thỉnh thoảng em lại xếp chỗ sách vở gọn nhất nhìn chiếc bàn vẫn như mới vậy.

Em yêu quý cái bàn này lắm bởi ngày nào nó cũng cùng em học tập miệt mài và trở thành con ngoan và trò giỏi.

27 tháng 10 2021

Chính tả ghi bằng u trước các nguyên âm vừa hoặc hẹp (uê, uơ, uya).

- Chính tả ghi bằng o trước các nguyên âm rộng (oa, oe) trừ khi trước nó là phụ âm q thì lại ghi bằng u (qua, que = koa, koe).

- Vì âm đệm là âm tròn môi, nên nó không đi trước các nguyên âm tròn môi o, ô, u nữa.

- Khi phát âm, không được dừng lâu ở âm đệm, mà phải chuyển qua âm chính ngay.

b. Âm chính: Vị trí âm chính do các nguyên âm đảm nhiệm

- Nguyên âm: là những âm tự nó phát ra âm thanh mà không cần nhờ tới một âm nào khác: làn hơi từ phổi ra qua thanh đới mở-đóng tạo cao độ của âm thanh, còn hình thể các khoang họng và khoang miệng khác nhau, do hoạt động của lưỡi và hàm dưới, sẽ tạo ra các nguyên âm khác nhau (hình 11).

- Phân loại: có hai loại nguyên âm chính là nguyên âm đơn (a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư, e, ê, i/y) và nguyên âm phức (ia (iê), ưa (ươ), ua (uô)).

* Dựa trên vị trí của lưỡi, người ta còn phân ra:

+ Nguyên âm hàng trước (lưỡi đưa ra trước, âm sắc sáng, bổng, môi bẹt): e, ê, i/y, iê (ia).

+ Nguyên âm hàng giữa (lưỡi nằm ở giữa, âm sắc trung hoà, môi không bẹt, không tròn): a (ă), ơ (â), ư, ươ (ua).<1>

+ Nguyên âm hàng sau (lưỡi rụt về sau, âm sắc tối, trầm, môi tròn): o, ô, u, uô (ua).

* Dựa trên độ mở của miệng, ta có 4 loại:

+ Nguyên âm rộng: e, a, o (âm lượng lớn)

+ Nguyên âm vừa: ê, ơ, ô (âm lượng vừa)

+ Nguyên âm hẹp: i, ư, u (âm lượng nhỏ)

+ Nguyên âm hẹp mở qua vừa: iê, ươ, uô (âm lượng nhỏ và lớn dần đến vừa)

Ghi chú:

- ă là âm ngắn của a

- â là âm ngắn của ơ

- o và ô đôi lúc có dạng âm dài là: oo, ôô (xoong, bôông) ia, ua, ưa là âm phức không có âm cuối (Td: chia, chua, chưa )

Ta có bảng tóm kết các nguyên âm như sau:

- Âm chính cùng với thanh điệu là hai yếu tố tối thiểu phải luôn luôn có mặt trong âm tiết, nếu không sẽ không có âm tiết: ả, ổ, ố...

c. Âm cuối:

Vị trí âm cuối do các bán âm cuối và phụ âm cuối đảm nhận.

* Bán âm cuối có 2 loại:

– Bán âm cuối bẹt miệng (lưỡi đưa ra trước) được ghi bằng i hoặc y:

+ Được ghi bằng y sau các nguyên âm ngắn ă, â: ăy, âu (hãy lấy: đáng lẽ ra chính tả phải ghi "hẵy" mới đúng ngữ âm).

+ Được ghi bằng i sau tất cả các nguyên âm còn lại mà không bẹt miệng (tức là bán âm i không đi sau các nguyên âm hàng trước, bẹt miệâng): ai ơi, ưi, ươi (ai # ăy) oi, ôi, ui, uôi.

– Bán âm cuối tròn môi (lưỡi rụt vào trong) được ghi bằng u hoặc o:

+ Không đi sau các nguyên âm hàng sau (tròn môi)

+ Được ghi bằng u sau các âm ngắn: âu, ău (trâu, tàu: đáng lẽ chính tả phải ghi "tằu" mới đúng ngữ âm)

+ Được ghi bằng u sau các âm vừa và âm hẹp: du, ưu, ươu, êu, iu, iêu (yêu)

+ Được ghi bằng o sau các âm rộng a, e = ao, eo (ao # ău)Lưu ý: khi gặp ay thì phải phân tích là ăy, khi gặp au thì phải phân tích là ău

* Phụ âm cuối gồm 8 âm chia làm 4 cặp như sau:

– Phụ âm môi: m - p (đóng tiếng bằng 2 môi): làm đẹp, rập rạp...

– Phụ âm đầu lưỡi: n - t (đóng lưỡi lên chân răng): ban hát, sền sệt...

– Phụ âm mặt lưỡi: nh - ch (đóng mặt lưỡi lên vòm miệng): chênh chếch, rách, rìnhLưu ý: nh - ch chỉ đi sau các nguyên âm hàng trước e - ê - i: enh ech, ênh êch, inh ich. Do đó, khi chính tả ghi anh, ach, ta phải phân tích là enh ech mới đúng.

– Phụ âm cuống lưỡi: ng - c (đóng cuống lưỡi lên vòm mềm): vang, dốc, vằng vặc...

Lưu ý: khi ng - c đi sau các nguyên âm hàng sau o - ô - u, thì không phải chỉ đóng cuống lưỡi, mà còn phải đóng ngay cả 2 môi nữa (ta phải ộc tiếng làm cho 2 má hơi phồng lên để tạo khoảng vang trong miệng).

Ghi chú:

- Các phụ âm cuối p, t, ch, c chỉ đi với thanh điệu sắc hoặc nặng, làm cho vần phải đọc dứt sớm hơn các vần đóng cùng loại, cổ thi gọi các vần đó là vần chết (tử vận).

- Khi vần có các âm cuối, thì âm chính ít nhiều bị ảnh hưởng - nó làm cho độ mở của miệng giảm bớt, ngắn lại.

- Các vần có âm cuối gọi là VẦN ĐÓNG, các vần không có âm cuối gọi là VẦN MỞ.5. Thanh điệu:

Gồm có sáu thanh: (1) ngang, (2) huyền, (3) ngã, (4) hỏi, (5) sắc, (6) nặng; được ký hiệu phiên âm bằng số 1 - 6 theo thứ tự trên.

a. Thanh điệu là yếu tố thay đổi cao độ của âm tiết. Nó ảnh hưởng lên toàn bộ âm tiết, nhưng khi viết nó được ghi trên hoặc dưới âm chính là nguyên âm đơn. Gặp nguyên âm phức không kèm theo âm cuối thì nó được ghi trên yếu tố đầu của âm phức (thí dụ: Chúa, chìa, chừa). Nếu nguyên âm phức có kèm theo phụ âm cuối thì thường ghi thanh điệu trên yếu tố thứ 2 của âm phức đó.Thí dụ: vướng, tiếng, chuồng.b. Phân loại dựa tên âm vực: có 2 loại cao và thấp

- Âm vực cao: thanh ngang, thanh ngã, thanh sắc

- Âm vực thấp: thanh huyền, thanh hỏi, thanh nặngc. Phân loại dựa trên âm điệu: có 2 loại bằng và trắc

- Âm điệu bằng: thang ngang, thanh huyền

- Âm điệu trắc: (không bằng phẳng)

+ Có đối hướng (gãy): thanh ngã, thanh hỏi

+ Không đối hướng: thanh sắc, thanh nặngCó thể tóm kết trong bảng sau đây:

Ghi chú: Các chữ để trong ngoặc đơn là tiếng Hán mà cha ông ta đã dùng trong thi văn cổ. Riêng "khứ" khắc với "nhập" ở chỗ thanh nhập âm điệu bị rút ngắn hơn thanh khứ.

Thí dụ: "má, "hán" (khữ) đọc dài hơn là "mát" (nhập) (thanh nhập đi với các âm cuối p, t, ch, c).

* PHẦN THỰC TẬP1. Tập đọc các nguyên âm đơn hàng trước, hàng giữa, hàng sau

- Phối hợp các phụ âm với các nguyên âm trên.

2. Tập đọc các âm cuối:

- Mai, măy, mao, mău, mam, máp, man, mát, mang mác...

- Tai, tăy, tao, tam, tan, tang...

- Mái, mắy, máo, mắu, mám, máp, mán, máng, mác. (Thay bằng các phụ âm đầu khác).

3. Tập phân biệt phụ âm đầu: xa # sa, la # na, tra # cha (thay các nguyên âm khác).4. Tập phân tích ngữ âm tất cả các chữ trong bài "Khúc Nhạc Cảm Tạ" và tập đọc cho đúng cách cấu âm của từng chữ, nhất là các phụ âm đầu và âm cuối: "Tình Chúa cao vời, ôi tình Chúa tuyệt vời, Người đã yêu tôi, muôn đời đã thương tôi, thương tôi từ thuở đời đời. Người đã cho tôi tiếng nói tuyệt vời, âm thanh chơi vơi ru hồn phơi phới, tiếng nói yêu thương, bay khắp muôn phương, vang lên khúc nhạc cảm tạ ngàn đời" (56 âm tiết).

Phân tích theo mẫu sau đây:

27 tháng 10 2021

bạn ơi . đây là nghĩa chi tiết nha

20 tháng 12 2021

hạt mưa

20 tháng 12 2021

Là hạt mưa nha em 

\(Mưa\)

\(T.I.C.K\)\(NHA\)

Viên phấn nhé

26 tháng 9 2021

viên phấn

20 tháng 4 2018

Cổ áo

21 tháng 2 2019

Phân tích cấu tạo là xác định chủ ngữ , vị ngữ

1. Đặt vấn đề

 

Một câu tiếng Việt hiện nay có thể được phân tích theo nhiều phương pháp. Phổ biến nhất là bốn phương pháp sau: (1) theo cấu trúc chủ - vị (ngữ pháp truyền thống), (2) theo cấu trúc vị từ - tham thể (ngữ pháp ngữ nghĩa), (3) theo cấu trúc đề - thuyết(ngữ pháp chức năng), và (4) theo cấu trúc cái cho sẵn - cái mới (lý thuyết phân đoạn thực tại).

 

Các phương pháp này được xây dựng dựa trên ba bình diện nghiên cứu câu: kết học, nghĩa học và dụng học. Trong đó, phân tích câu theo cấu trúc chủ - vị thuộc bình diện kết học của câu, cấu trúc vị từ - tham thể thuộc bình diện nghĩa học, cấu trúc cái cho sẵn - cái mới thuộc bình diện dụng học. Riêng phương pháp phân tích câu theo cấu trúc đề - thuyết thì lại được quan niệm theo nhiều cách khác nhau. Cao Xuân Hạo không xếp đề - thuyết vào bình diện kết học, song ông cũng băn khoăn khi xếp đề - thuyết vào bình diện dụng học [4, tr. 11].

 

2. Trong bài viết này, chúng tôi  sẽ phân tích mẫu một số câu cụ thể theo từng phương pháp; nêu ưu thế, hạn chế của mỗi phương pháp và sự tương quan/ mối quan hệ của các phương pháp với nhau.

 

2.1. Phương pháp phân tích câu theo cấu trúc chủ - vị

 

Đây là phương pháp lâu đời nhất của ngữ pháp truyền thống, được xây dựng dựa trên ba quan hệ ngữ pháp cơ bản của câu: quan hệ đẳng lập, quan hệ chính phụ và quan hệ chủ vị. Muốn vẽ được mô hình câu theo phương pháp này, phải xác định được ba quan hệ trên. Qui ước vẽ như sau: với quan hệ đẳng lập, không vẽ mũi tên ở cả hai chiều; với quan hệ chính phụ, vẽ mũi tên hướng về thành tố chính; với quan hệ chủ vị, vẽ mũi tên ở cả hai chiều.

 

a. Một số ví dụ mẫu

 

Công ty   chúng tôi  // sẽ   thi công     một  tòa nhà    24  tầng.

 

                           ĐN                                               ĐN

 

                                                          ĐN                          ĐN

 

                                                                                  BN

 

           C                                               V

 

-> Đây là câu đơn.

 

Bỗng  một  bàn tay /  đập  (vào)  vai   //    khiến    hắn  /  giật mình.

 

TTN                                                BN                  C                    V

 

                C                           V                                           BN     

 

                           CN                                                   VN

 

-> Đây là câu phức thành phần chủ ngữ và thành phần bổ ngữ.

 

b. Ưu thế của phương pháp phân tích câu theo cấu trúc chủ - vị

 

Đối với người Việt, chủ ngữ và vị ngữ là những khái niệm hết sức quen thuộc. Đây lại là phương pháp ra đời sớm, được nghiên cứu nhiều, nên hệ thống lý thuyết tương đối sáng rõ.  Các thành tố cấu tạo nên câu được phân tích hết sức tỉ mỉ và cạn kiệt. Không có bất kỳ một từ nào trong câu không được làm rõ, dù đó là thực từ hay hư từ. (Theo chúng tôi, trong số bốn phương pháp phân tích câu, đây là phương pháp phân tích chi tiết nhất). Quan hệ giữa các từ trong cụm từ, quan hệ giữa các cụm từ với nhau luôn được thể hiện rõ ràng. Chức năng của các thành phần câu được phản ánh một cách rất cụ thể. Nếu dạy cho học sinh phân tích câu theo cách này, người học dễ dàng xây dựng những câu đúng ngữ pháp, chuẩn mực.

 

Phương pháp này có hạn chế sau đây. Khi nói một câu, cái quan trọng là ta truyền đi một thông tin. Phân tích câu theo cấu trúc chủ - vị chỉ quan tâm đến bình diện hình thức của câu mà không làm nổi rõ vấn đề trọng tâm thông báo của câu. Các thành phần câu được gọi tên thuần tuý theo kiểu ngữ pháp, không rõ chức năng ngữ nghĩa. Cách phân tích này quá tỉ mỉ, nên không phải lúc nào cũng có thể ứng dụng được cho mọi câu tiếng Việt, đặc biệt là những câu trong giao tiếp sinh hoạt hàng ngày, những câu có cấu trúc hơi khác thường.

 

 

 

2.2. Phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ -  tham thể

 

Người khơi nguồn cho phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể là L.Tesnière với lý thuyết diễn trị (vào khoảng những năm 30 của thế kỷ trước). Ông đã gợi ra một giải pháp nghĩa học độc lập cho việc phân tích câu. Sau ông, nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm đến vấn đề này. Đó là C.J. Fillmore, M.A.K. Halliday, W.Chafe, C. Hagège, S.C.Dik… Để phân tích được câu theo phương pháp này, trước hết phải xác định được vị từ trung tâm, sau đó xác định các tham thể bắt buộc xoay xung quanh vị từ đó, cuối cùng là xác định các tham thể mở rộng.

 

a. Một số ví dụ mẫu

 

Ngày 8-3,           tôi             tặng      cho người yêu     một bó hoa hồng.

 

TTMR               TTBB          VTTT           TTBB                     TTBB

 

        (thể thời gian)   (hành thể)                         (tiếp thể)                 (đối thể)

 

      Con mèo nhảy mạnh                   làm đổ                    lọ hoa.

 

TTBB (thể nguyên nhân)               VTTT              TTBB (đối thể)

 

Tôi                         lại tưởng                      anh ta không muốn đến.

 

TTBB (thể cảm nghĩ)         VTTT                            TTBB (thể nội dung)

 

Phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ – tham thể có ưu thế sau: Các thành tố trong cấu trúc vị từ - tham thể phản ánh sự tương ứng về nghĩa của chúng với các sự vật trong thực tế khách quan. Toàn bộ nội dung câu phản ánh một sự tình của thế giới ấy. Thông qua cấu trúc này, ta hiểu hơn về sự gắn bó giữa ngôn ngữ học với cuộc sống con người.

 

Phương pháp  phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể có hạn chế là không quan tâm đến các hư từ. Vì vậy, mối quan hệ giữa các từ trong câu nhiều khi không được làm rõ. Đặc biệt, cấu trúc này không phân tích được cạn kiệt các thành phần trong câu, chẳng hạn, không làm rõ được thành phần định ngữ có vai trò gì trong cấu trúc nghĩa sự vật. Ví dụ: Cô gái nhỏ nhắn ấy là bạn tôi. Toàn bộ cụm danh từ cô gái nhỏ nhắn ấy là một tham thể; bạn tôi là một tham thể. Còn nhỏ nhắn và tôi có vai trò gì thì không quan tâm đến.

 

Nhiều trường hợp rất khó phân tích câu theo cấu trúc này, nhất là đối với những câu có nhiều tầng bậc. Ngoài ra, rất khó xác định vai nghĩa mà các tham thể đảm nhiệm do không có dấu hiệu hình thức rõ ràng. Có một thực tế là người ta vẫn dựa vào sự tương ứng giữa các thành tố của cấu trúc vị từ - tham thể với các thành phần câu trong cấu trúc chủ - vị để từ cấu trúc chủ - vị, suy ra cách phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể. Như vậy rõ ràng là muốn phân tích câu (dù theo cách nào), vẫn phải học cấu trúc chủ - vị trước.

 

Mối quan hệ giữa cấu trúc vị từ  – tham thể với cấu trúc chủ – vị:

 

CẤU TRÚC CHỦ – VỊ

CẤU TRÚC VỊ TỪ - THAM THỂ

Chủ ngữ

Tương ứng với tham thể bắt buộc (là tham thể quan trọng nhất)

Trung tâm của vị ngữ

Tương ứng với vị từ trung tâm (toàn bộ vị ngữ có thể tương đương với cả vị từ trung tâm + tham thể bắt buộc / không bắt buộc).

Bổ ngữ: 2 loại:

+ Bổ ngữ bắt buộc (của động từ trao nhận, sai khiến…)

+ Bổ ngữ không bắt buộc (Bổ ngữ thời gian, địa điểm, mục đích….)

 

+ Tương ứng với tham thể bắt buộc.

 

+ Tương ứng với tham thể không bắt buộc.

Định ngữ

Không tương ứng với một tham thể. Nó cùng với danh từ trung tâm làm thành một tham thể.

Đề ngữ

Tương ứng với tham thể bắt buộc do nó có quan hệ về nghĩa với nòng cốt câu hoặc các thành tố trong câu.

Trạng ngữ

Tương ứng với tham thể mở rộng, có thể lược bỏ (chu tố).

Các thành phần biệt lập (phụ chú ngữ, liên ngữ, hô ngữ, tình thái ngữ)

Không tương ứng với bất kỳ thành tố nào trong cấu trúc vị từ - tham thể vì các thành tố này không tham gia vào việc biểu hiện nghĩa sự vật.

Vị ngữ phụ

Tương ứng với tham thể mở rộng, có thể lược bỏ (chu tố).

 

2.3. Phương pháp phân tích câu theo cấu trúc đề – thuyết

 

Theo quan điểm của ngữ pháp chức năng, một câu được chia ra hai phần: phần đề và phần thuyết. Để phân tích được câu theo cấu trúc này, có thể dựa vào nhiều tiêu chí, tuy nhiên, đơn giản nhất là dựa vào tiêu chí về phương tiện. Ba chỉ tố đánh dấu sự phân chia đề - thuyết là thì, là, mà.

 

a. Một số ví dụ mẫu

 

                                                              C

 

  KĐ                                     Đ                              T

 

                            MXN

 

 

 

Buổi chiều,    mệt mỏi vì chờ đợi,          lăn ra ngủ.                                      

 

-> Đây là câu đơn một bậc đề - thuyết.

 

                                C

 

          

 

         Đ                                Ta                                     Tb

 

 

 

                                     đ                    t            đ                       t

 

       Con bé ấy                  mắt   thì     giống mẹ,  nước da      lại giống bố.              

 

-> Đây là câu đơn hai bậc đề - thuyết.

 

         

 

                                    V1                            V2

 

                           Đ                  T           Đ                   T

 

 

 

                     Tay anh   bưng ngọn đèn, em       che ngọn gió.

 

-> Đây là câu ghép.

 

Phương pháp phân tích câu theo cấu trúc đề  – thuyết có ư thế là: Cấu trúc đề - thuyết phản ánh được vấn đề thông tin của câu, trong đó, phần thuyết là phần chứa đựng nội dung thông tin mới. Căn cứ xác định đề - thuyết là dựa vào các tác tử thì, là, mà: chỗ nào chen được các tác tử này thì chỗ đó là ranh giới phân chia đề - thuyết. Thao tác này tương đối đơn giản. Do vậy, việc phân tích câu theo cấu trúc đề - thuyết nhìn chung là dễ thực hiện.

 

 So với phương pháp phân tích câu theo cấu trúc chủ - vị thì khi áp dụng phương pháp phân  tích câu theo cấu trúc đề - thuyết, các thành phần chỉ được phân tích sơ bộ chứ không được phân tích thật chi tiết.

 

Nhìn chung, cấu trúc đề - thuyết dễ ứng dụng đối với những câu được sử dụng trong hội thoại hàng ngày. Quả thực trong hội thoại, các phát ngôn chứa rất nhiều các tác tử thì, là, mà…, do vậy, việc phân tích khá đơn giản. Còn trong các văn bản văn học, nhất là các văn bản khoa học thì các từ “râu ria” này sẽ ít hoặc không xuất hiện. Về mặt lý thuyết, chúng ta có thể thêm các từ này vào để làm ranh giới phân chia đề - thuyết, song việc làm này mang tính chất cảm tính. Việc xác định phần đề, phần thuyết lệ thuộc rất nhiều vào ngữ cảnh. Thêm vào đó, trong những câu có chứa cả thì và là, ranh giới xác định đề - thuyết không nhất quán, có lúc dựa vào thì, có lúc dựa vào là.

 

 Dù sao, phân tích câu theo cấu trúc đề - thuyết vẫn là một phương pháp mới, không quen thuộc với người học, do vậy, thông thường người học hay suy từ cấu trúc chủ - vị sang cấu trúc đề - thuyết. Như vậy, cách phân tích này dường như bị lệ thuộc vào lối phân tích chủ - vị.

 

Mối quan hệ giữa cấu trúc đề - thuyết với cấu trúc chủ – vị:

 

 

 

 

CẤU TRÚC CHỦ - VỊ

CẤU TRÚC ĐỀ  - THUYẾT

Phạm vi ngữ nghĩa

Chủ ngữ hẹp hơn phần đề và vị ngữ hẹp hơn phần thuyết.

Phần đề rộng hơn chủ ngữ. Phần thuyết rộng hơn vị ngữ.

Mối quan hệ giữa hai thành phần chính trong câu

Quan hệ giữa chủ ngữ với vị ngữ tương đối chặt.

Quan hệ giữa đề với thuyết tương đối lỏng.

Sự tương ứng của một số thành phần câu

- Khởi ngữ

- Trạng ngữ

- Vị ngữ phụ

- Vế phụ của câu ghép chính

phụ

- Tình thái ngữ

 

- Liên ngữ

- Hô ngữ

- Phụ chú ngữ

- Tương ứng với phần đề

- Tương ứng với chu ngữ

- Tương ứng với minh xác ngữ

- Tương ứng với phần đề

 

- Đề tình thái (siêu đề) hoặc

thuyết tình thái (thuyết giả)

- Đề tình thái (siêu đề)

- Vế câu than gọi

- Vế câu phụ chú

Sự tương ứng của các kiểu câu

- Câu đơn

 

- Câu phức

 

- Câu ghép đẳng lập

 

- Câu ghép chính phụ

- Tương ứng với câu đơn 1 bậc Đề-Thuyết.

- Tương ứng với câu đơn 2 bậc Đề-Thuyết trở lên.

- Tương ứng với câu đơn 2 bậc Đề-Thuyết trở lên.

- Tương ứng với câu ghép.

Ưu thế và hạn chế chính

- Dễ đối với quy trình phân tích câu (phân tích văn bản) nhưng khó đối với quy trình xây dựng câu (tạo lập văn bản).

- Có thể phân tích đến cạn kiệt tất cả các thành phần.

- Không quan tâm tới vấn đề thông tin của câu.

- Dễ đối với quy trình xây dựng câu (tạo lập văn bản) nhưng khó đối với quy trình phân tích câu (phân tích văn bản).

- Không thể phân tích cạn kiệt tất cả các thành phần.

- Quan tâm tới vấn đề thông tin của câu(Thông tin mới nằm ở phần thuyết).

Mối quan hệ với ngữ cảnh

- Ít  phụ thuộc vào ngữ cảnh. -> Cấu trúc C-V luôn được phân tích giống nhau ở mọi ngữ cảnh.

- Phụ thuộc khá chặt vào ngữ cảnh -> Trong các ngữ cảnh khác nhau, một phát ngôn có thể có phần Đ và T khác nhau.

 

2.4. Phương pháp phân tích câu theo cấu trúc “cái cho sẵn – cái mới”

 

Người đầu tiên đề xuất lý thuyết phân đoạn thực tại là nhà ngôn ngữ học người Sec V.Mathesius. Theo ông, một phát ngôn gồm hai phần: cái cho sẵn - cái mới (Nguyễn Minh Thuyết, Trần Ngọc Thêm sử dụng cặp thuật ngữ nêu - báo). Trong đó, phần nêu (cái cho sẵn) là xuất phát điểm của thông báo, là đối tượng của cuộc nói chuyện, tức là thông tin đã biết hoặc dễ nhận biết mà từ đó người nói bắt đầu thông báo của mình; còn phần báo (cái mới) là trọng tâm của thông báo, là hạt nhân của cuộc thoại. V.Mathesius cũng cho rằng cái cho sẵn tương ứng với phần đề của câu, còn cái mới tương ứng với phần thuyết. Sau này, M.A.K Halliday phát hiện cái cho sẵn - cái mới không tương ứng một đối một với cấu trúc đề - thuyết của câu.

 

Để có thể sử dụng phương pháp phân tích câu này, cần đặt câu trong một ngữ cảnh cụ thể. Sau đó xác định thông tin cũ, mới dựa vào các hư từ, dựa vào khả năng lược bỏ và dựa vào một số phép liên kết câu.

 

Một số ví dụ:

 

 (Lan im lặng). Lan  như nghe thấy tiếng đập của con tim mình.

 

                         CC                                  CM

 

 Bỗng từ dưới nước nhô lên một cánh tay.

 

                     CM  

 

Chính    ăn hai bát cháo (chứ không phải tôi).

 

         CM          CC

 

Phương pháp phân tích câu theo cấu trúc “cái cho sẵn – cái mới” có ưu thế sau:

 

Như chúng ta biết, nói một câu là truyền đi một thông tin. Tất nhiên, cái mà người ta quan tâm là thông tin mới. Cấu trúc cái cho sẵn – cái mới có ưu thế nổi bật mà không cấu trúc nào có được - đó là nó phản ánh thông tin cũ - mới của câu một cách hết sức rạch ròi. Về điểm này, nó còn vượt xa cả cấu trúc đề - thuyết vì thỉnh thoảng, trong phần thuyết vẫn chứa một vài từ ngữ mang thông tin cũ. Do vậy, nó còn được gọi là cấu trúc thông tin hay, vắn tắt hơn, là cấu trúc tin.

 

Hạn chế của phương pháp này là: Cấu trúc chủ - vị là cấu trúc cú pháp ổn định, tách rời ngữ cảnh. Nói cụ thể hơn, trong bất cứ tình huống nào, chủ ngữ vẫn cứ là chủ ngữ, vị ngữ vẫn cứ là vị ngữ. Đây là cấu trúc ở dạng tĩnh. Trong khi cấu trúc tin phụ thuộc chặt chẽ vào ngữ cảnh (có thể nói là lệ thuộc vào ngữ cảnh). Vậy, nếu không có tình huống giao tiếp hay ngữ cảnh cụ thể thì ta không thể phân tích câu theo cấu trúc này.

 

Mối quan hệ giữa cấu trúc “cái cho sẵn - cái mới” với cấu trúc chủ – vị:

 

Cấu trúc tin có thể trùng với cấu trúc chủ - vị, có thể không.

 

Trường hợp cấu trúc tin trùng với cấu trúc chủ - vị là trường hợp chủ ngữ mang tin cũ và vị ngữ mang tin mới. Chẳng hạn:

 

  (Lan mệt mỏi).  Cô ấy    đã thức suốt đêm qua.

 

Theo cấu trúc chủ - vị:      C                    V

 

Theo cấu trúc nêu - báo:   CC                 CM

 

Đặc biệt với cấu trúc có chứa từ “là”, thông thường cái cho sẵn trùng với chủ ngữ, cái mới trùng với vị ngữ.

 

Song, trên thực tế, có rất nhiều trường hợp ranh giới Cái cũ – Cái mới không trùng với chủ - vị. Bởi lẽ, về nguyên tắc, thông tin mới của câu có thể nằm ở bất kỳ thành phần nào trong câu (chủ ngữ, bổ ngữ, định ngữ, trạng ngữ…). Thậm chí, có những trường hợp, phần tin mới nằm ở các hư từ vốn không đảm nhiệm chức năng cú pháp gì trong câu. Ví dụ:

 

Tin mới trùng với chủ ngữ:

 

-         Chính  đã từ bỏ tình yêu của mình.

 

-         Anh Bình mới là người đến trước.

 

-         Cả anh ấy cũng vắng mặt.

 

 Tin mới trùng với bổ ngữ:

 

-         Cô ấy nghi ngờ cả tôi.

 

-         Nó đọc cả báo.

 

Tin mới trùng với trạng ngữ:

 

-         Mai anh đi à?

 

-         Ngày kia tôi mới đi.

 

Tin mới trùng với các hư từ trong câu:

 

-         Cậu ăn cơm chưa?

 

-         Rồi.

 

Tin mới cũng có thể nằm ở các tình thái từ hoặc các quán ngữ tình thái bởi lẽ các từ ngữ này luôn là điểm nhấn quan trọng về mặt thông tin. Do vậy, xét về tính đúng sai, tính chân thực của phát ngôn, ta thấy có một điều khá thú vị. So sánh:

 

(a) Anh ấy không đến.

 

(b) Có lẽ anh ấy không đến.

 

Trong câu (b), có lẽ là thành phần tình thái ngữ. Nó không phải là thành phần quan trọng trong cấu trúc chủ - vị của câu, bỏ nó đi, câu vẫn không sai về ngữ pháp. Nhưng nếu thực tế là anh ấy đến, thì nhận định (a) sẽ là sai, còn (b) không bị coi là sai.

 

Xét về số lượng các thành phần trong câu thì cấu trúc tin luôn luôn chỉ có hai phần (cái cho sẵn - cái mới). Còn cấu trúc chủ - vị, ngoài hai thành phần chính (chủ ngữ, vị ngữ), trong câu còn rất nhiều các thành phần khác (trạng ngữ, đề ngữ, tình thái ngữ…)

 

Bây giờ, chúng tôi sẽ phân tích một câu theo cả bốn phương pháp. Câu được chọn là: Ngữ pháp tiếng Việt thì chúng tôi sẽ học chiều nay.

 

(1)   Phương pháp phân tích theo cấu trúc chủ – vị:

 

Ngữ pháp  tiếng Việt  (thì)  chúng tôi // sẽ học  chiều nay.

 

                         ĐN                                                     BN

 

                                              C                         V

 

          K                                                

 

-> Đây là câu đơn bình thường.

 

(2)   Phương pháp phân tích theo cấu trúc vị từ - tham thể:

 

Ngữ pháp tiếng Việt  thì  chúng tôi    sẽ học   chiều nay.

 

      TTBB                            TTBB      VTTT        TTMR

 

    Thể đối tượng              Hành thể                  Thể thời gian

 

(3)   Phương pháp phân tích theo cấu trúc đề – thuyết:

 

                            C

 

 

 

 
 

 

 

             Đ                                    T

 

                                           đ2                           t2

 

Ngữ pháp tiếng Việt thì chúng tôi // sẽ học chiều nay.

 

-> Đây là câu đơn hai bậc đề - thuyết.

 

(4)   Phương pháp phân tích theo cấu trúc “cái cho sẵn - cái mới”:

 

Giả sử ngữ cảnh xuất hiện của câu này là có một người nào đó hỏi: “Bao giờ thì các bạn học ngữ pháp tiếng Việt?”. Câu trả lời sẽ được phân tích như sau:

 

Ngữ pháp tiếng Việt  thì chúng tôi  sẽ học  chiều nay.

 

          CC                           CC           CC          CM

 

Rõ ràng là bốn kiểu cấu trúc trên không trùng nhau.

 

3. Kết luận

 

  Một câu tiếng Việt hiện nay có thể được phân tích theo bốn phương pháp. Bốn phương pháp này có những điểm tương đồng với nhau, cũng có những điểm khác biệt. Chúng hỗ trợ, bù đắp cho nhau để cuối cùng, nếu chúng ta nắm được cả bốn phương pháp phân tích câu, chúng ta sẽ có được một cái nhìn toàn diện nhất về câu tiếng Việt.

 

  Mỗi phương pháp phân tích câu có những thế mạnh riêng, phụ thuộc vào bình diện mà nó phản ánh.

 

Lẽ dĩ nhiên, mỗi phương pháp cũng có những hạn chế của nó. Song xét trên từng bình diện nghiên cứu câu một cách độc lập, mỗi phương pháp ấy đã hoàn thành tốt sứ mạng của mình.

17 tháng 3 2018

cái cổ áo như hai cái lá non

1 , Bệnh gì bác sĩ phải bó tay ?Trả lời :................................2, Lịch nào dài nhất ?Trả lời : ..............................3, Con đường dài nhất là đường nào ?Trả lời :.............................4,Quần rộng nhất là quần gì ?Trả lời :..............................5,Cái gì mà đi thì nằm, đứng cũng nằm, nhưng nằm lại đứng?Trả lời :..............................6,Núi nào mà bị chặt ra từng khúc...
Đọc tiếp

1 , Bệnh gì bác sĩ phải bó tay ?

Trả lời :................................

2, Lịch nào dài nhất ?

Trả lời : ..............................

3, Con đường dài nhất là đường nào ?

Trả lời :.............................

4,Quần rộng nhất là quần gì ?

Trả lời :..............................

5,Cái gì mà đi thì nằm, đứng cũng nằm, nhưng nằm lại đứng?

Trả lời :..............................

6,Núi nào mà bị chặt ra từng khúc ?

Trả lời :.................................

7,Cái gì bằng cái vung, vùng xuống ao, đào chẳng thấy, lấy chẳng được?

Trả lời :...............................

8, Con gì đập thì sống , không đập thì chết ?

Trả lời :.............................

9,Bỏ ngoài nướng trong, ăn ngoài bỏ trong là gì ?

Trả lời :.............................

10, Trong 1 cuộc thi chạy, nếu bạn vượt qua người thứ 2 bạn sẽ đứng thứ mấy?

Trả lời :.............................

AI NHANH MÌNH TICK CHO !

ĐÂY CHỈ LÀ ĐỐ VUI THÔI !

14
26 tháng 12 2017

1 Bệnh gãy tay

2 Lịch sử

3 Đường đời

4  Quần đảo

5  Cái chân

6 Núi Thái Sơn

7 Mặt Trăng

8 Con tim

9 Bắp ( Ngô)

10 Thứ 2

26 tháng 12 2017

1. Bệnh gãy tay

2.Lịch sử

30 tháng 6 2020

Câu '' Rồi hôm sau , khi phương đông vừa vẩn bụi hồng , con chim họa mi ấy lại hót vang lừng chào nắng sớm.'' thuộc kiểu câu đơn.