Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Những cuộc khởi nghĩa vũ trang của đồng bào các dân tộc thiểu số
- Thủ lĩnh các dân tộc ít người (Giàng Tả Chay, Nơ-trang Lơng)
- Dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên
- 1914 – 1915: khởi nghĩa của người Thái ở Tây Bắc.
- 1918, người Mông ở Lai Châu khởi nghĩa
- 1918 - 1919, ở Đông Bắc, binh lính đồn Bình Liêu nổi dậy, lôi cuốn đông đảo các dân tộc Nùng, Dao...
- Ở Tây Nguyên, lớn nhất là khởi nghĩa của đồng bào Mơ-nông do Nơ-trang Lơng chỉ huy, dài hơn 20 năm.
Tất cả đều thất bại nhưng đã góp phần vào cuộc đấu tranh chung của dân tộc.
Cuối thế kỷ XIX, với danh nghĩa truyền giáo, các giáo sĩ người Pháp đã đặt chân lên vùng đất này, thực chất là mở đường, đặt cơ sở cho việc chinh phục Tây nguyên. Theo chân các giáo sĩ, từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, sau khi thôn tính xong Nam Bộ, thực dân Pháp đã đẩy mạnh xâm chiếm Tây nguyên, từng bước thiết lập bộ máy cai trị trên đất Gia Lai. Từ đây, vùng đất Gia Lai chịu sự thống trị của chính quyền thực dân Pháp.
Sau khi chiếm Gia Lai, thực dân Pháp liên tục chia tách các tỉnh, các vùng dân cư ở khu vực Tây nguyên, tạo nên sự thay đổi về địa giới hành chính toàn vùng. Qua nhiều lần chia tách, sáp nhập, ngày 24/5/1932, theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương, tỉnh Pleiku chính thức được thành lập gồm đại lý Pleiku và đại lý Cheo Reo.
Cho đến trước Cách mạng Tháng tám năm 1945, tỉnh Pleiku gồm có thị xã Pleiku, huyện An Khê, huyện Pleikli, huyện Chư Ti và huyện Cheo Reo. Cư dân của tỉnh Pleiku lúc này chủ yếu là đồng bào dân tộc Jrai, Bahnar và một số ít người Kinh. Tuy địa giới hành chính nhiều lần thay đổi nhưng tỉnh Pleiku vẫn được giữ nguyên tên gọi cho đến ngày giải phóng (17-3-1975).
Về phía chính quyền cách mạng, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, tên tỉnh được đổi thành Gia Lai. Ngày 15-4-1950, theo Nghị định số 07/NĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh Kon Tum được sáp nhập vào Gia Lai thành tỉnh Gia -Kon. Sau Hiệp định Giơnevơ (1954), tỉnh Gia - Kon được tách thành tỉnh Gia Lai và Kon Tum. Tên tỉnh Gia Lai được giữ nguyên cho đến năm 1975. Sau khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng, thực hiện Nghị quyết số 245-NQ/TƯ ngày 20-9-1975 của Bộ Chính trị về việc bỏ cấp khu, hợp nhất tỉnh, tỉnh Gia Lai và tỉnh Kon Tum được hợp nhất thành tỉnh Gia Lai - Kon Tum. Đến ngày 12-8-1991, theo Nghị quyết kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VIII, tỉnh Gia Lai - Kon Tum được chia tách thành tỉnh Gia Lai và Kon Tum.
Phát huy tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, bất khuất trước kẻ thù, ngay từ khi thực dân Pháp đặt chân lên Tây Nguyên, nhân dân các dân tộc Gia Lai đã liên tiếp nổi dậy, bền bỉ đấu tranh chống xâm lược và chính sách cai trị của thực dân, phong kiến.
Lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương đã ghi nhận phong trào đấu tranh kiên cường, bất khuất từ cuối thế kỷ XIX đến những năm 30 của thế kỷ XX của đồng bào dân tộc Gia Lai đã khiến thực dân Pháp phải lo sợ. Các cuộc nổi dậy đấu tranh vũ trang của nhân dân Gia Lai trước khi có Đảng diễn ra liên tục, kéo dài. Và, tuy bị đàn áp nhưng tinh thần yêu nước, vùng lên chống thực dân, phong kiến của nhân dân vẫn không hề suy giảm.
Năm 1930, Đảng cộng sản Đông Dương ra đời, lãnh đạo nhân dân cả nước đứng lên đấu tranh chống thực dân, phong kiến, giành độc lập, tự do cho dân tộc. Đường lối giải phóng dân tộc của Đảng và phong trào cách mạng trong cả nước đã ảnh hưởng sâu sắc đến Gia Lai thông qua những đảng viên cộng sản từ miền xuôi lên hoạt động tại các đồn điền. Từ đây, tuy vẫn còn mang tính tự phát nhưng phong trào đấu tranh của công nhân, nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã chịu ảnh hưởng trực tiếp của Đảng, của phong trào cách mạng trong cả nước .
Năm 1945, cùng với khí thế sục sôi của Cách mạng tháng Tám trong cả nước, thực hiện chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong điều kiện địa phương chưa có tổ chức Đảng cộng sản, nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đoàn thanh niên yêu nước Gia Lai (thành lập tháng 4-1945). Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền mở ra khả năng to lớn cho việc tập hợp đông đảo lực lượng yêu nước trong các tầng lớp nhân dân các dân tộc trong tỉnh thành lực lượng cách mạng hùng hậu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Thắng lợi đó đã mở ra thời kỳ mới trong lịch sử phong trào cách mạng Gia Lai, là tiền đề trực tiếp cho việc thành lập Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Gia Lai tháng 12-1945 và những thắng lợi to lớn, vẻ vang sau này.
Chưa bao lâu sau ngày giành được chính quyền, thực dân Pháp lại dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa. Đất nước Việt Nam đứng trước nguy cơ thù trong giặc ngoài, trong khi chính quyền cách mạng mới thành lập còn non trẻ, lực lượng cách mạng chưa phát triển và chưa đều khắp. Những thành quả mà nhân dân vừa mới giành được đang bị đe dọa. Do vậy, yêu cầu cấp bách, trước mắt và lâu dài lúc này ở Gia Lai là phải có một tổ chức Đảng để lãnh đạo nhân dân các dân tộc đấu tranh củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng, ổn định đời sống nhân dân, gấp rút chuẩn bị các điều kiện để kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, với sự lãnh đạo tích cực của Xứ ủy Trung kỳ và Việt Minh Trung bộ, ngày 01-10-1945, chi bộ Đảng cộng sản Đông Dương đầu tiên chính thức được thành lập tại thị xã Pleiku và tiếp sau đó, các chi bộ đảng ở An Khê, Bàu Cạn, Biển Hồ và trong Chi đội Tây Sơn... lần lượt được thành lập với tổng số 24 đảng viên. Sự ra đời của các chi bộ cộng sản đã đánh dấu mốc quan trọng trong bước phát triển mới của phong trào cách mạng địa phương. Tuy nhiên, để có sự lãnh đạo thống nhất và tập trung của các tổ chức đảng, ngày 10-12-1945, Đảng bộ Đảng cộng sản Đông Dương tỉnh Gia Lai được thành lập, lấy tên là Đảng bộ Tây Sơn. Từ đây, cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã có sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ.
Sau khi ra đời, Đảng bộ tỉnh đã tập trung lãnh đạo xây dựng, phát triển lực lượng, tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Đảng bộ Gia Lai đã đề ra các chương trình hành động cách mạng, tập hợp và lãnh đạo các tầng lớp nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và giành được những thắng lợi to lớn trên các mặt. Với việc phát triển nhanh lực lượng chính trị, vũ trang, xây dựng và mở rộng các khu căn cứ du kích, đảng bộ, quân và dân các dân tộc Gia Lai đã từng bước làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù; tiến lên giải phóng và làm chủ phần lớn vùng nông thôn, góp phần cùng quân dân cả nước giành thắng lợi trong 9 năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Từ thực tiễn của cuộc kháng chiến, Đảng bộ từng bước trưởng thành và ngày càng lớn mạnh, nâng cao uy tín trong các tầng lớp nhân dân.
Kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng bộ tiếp tục lãnh đạo các tầng lớp nhân dân trong tỉnh đoàn kết một lòng, bước vào cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ đầy gian khổ, hy sinh. Qua 21 năm kháng chiến chống Mỹ và tay sai, với bản lĩnh cách mạng và kinh nghiệm quí báu được rút ra từ trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng bộ Gia Lai đã lãnh đạo nhân dân trong tỉnh phát huy truyền thống cách mạng, ý chí độc lập tự do, liên tiếp đánh bại các âm mưu, chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, cùng quân dân miền Nam giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Qua hai cuộc kháng chiến đầy gian khổ, hy sinh; với khát vọng độc lập, tự do; với tình yêu buôn làng, quê hương, nhân dân các dân tộc Gia Lai đã sẵn sàng đứng lên làm cách mạng theo tiếng gọi của Đảng, của Bác Hồ. Trên vùng đất này, mỗi ngọn núi, con sông, mỗi con đường, bản làng... đều ghi đậm những chiến công oanh liệt của nhân dân và chiến sỹ Gia Lai. Những tên đất, tên làng đã thành tên của những chiến công lừng lẫy như làng kháng chiến Stơr, chiến khu Xóm Ké, xã chiến đấu Gia Hội... và những địa danh lịch sử như chiến thắng Gim 100 tại đồi Đăk Pơ, chiến thắng Plei Me tại thung lũng Ia Drăng, chiến thắng đường 7 - sông Bờ... đã làm cho kẻ thù khiếp sợ. Những chiến công, tên tuổi những Anh hùng Đinh Núp, Wừu, Kpă Klơng, Kpuih Thu, Rơchăm Ơt, Puih San (A Sanh) ... đã đi vào lịch sử đấu tranh cách mạng hào hùng của dân tộc như một huyền thoại, không chỉ là niềm tự hào của riêng đồng bào Gia Lai mà còn là niềm tự hào, niềm kiêu hãnh của đồng bào các dân tộc Tây nguyên và của cả dân tộc Việt Nam.
THAM KHẢO Ở TRONG NÀY NHA!
Tham khảo:
- Giá trị của các bài học kinh nghiệm:
+ Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, bài học lịch sử của các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc vẫn còn nguyên giá trị, có vai trò đặc biệt quan trọng trong công cuộc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, phát triển kinh tế - văn hóa; trong quá trình xây dựng và củng cố nền quốc phòng, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
+ Bài học lịch sử của các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc trong lịch sử Việt Nam cũng có giá trị đối với chính sách đối ngoại của Việt Nam trong bối cảnh tình hình khu vực và thế giới có nhiều biến đổi.
- Ví dụ về bài học: tập hợp, xây dựng lực lượng và khối đoàn kết toàn dân tộc
+ Đại dịch Covid-19 đã gây những ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế - xã hội và mọi mặt đời sống của nhân dân. Với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, bảo vệ sức khỏe, tính mạng của nhân dân là trên hết, tháng 7/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ra Lời kêu gọi gửi đồng bào, chiến sĩ cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài về công tác phòng, chống đại dịch Covid -19. Cùng với lời kêu gọi của đồng chí Tổng Bí thư, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng ra lời kêu gọi “Toàn dân đoàn kết, ra sức phòng, chống dịch Covid-19”.
=> Hưởng ứng những Lời kêu gọi đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và kiều bào Việt Nam ở nước ngoài đã đoàn kết, đồng lòng cùng với Đảng, Chính phủ, các cấp chính quyền, các ngành,… triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt ngăn chặn và từng bước đẩy lùi dịch bệnh.
1. ý nghĩa thắng lợi
Kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhân dân ta đã đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ trong thế kỷ 20, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc Việt Nam yêu quý, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài 115 năm của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta. Nhân dân ta gạt bỏ được trở ngại lớn nhất trong cuông cuộc hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất đất nước, tiến lên CNXH. Do đó, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mang nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Đối với nhân dân ta
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đánh dấu bước ngoặt rất cơ bản, quyết định của con đường cách mạng mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra từ trong Chính cương vắn tắt năm 1930 - Con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tự do, ấm no, hạnh phúc.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kế tục thắng lợi Cách mạng tháng 8-1945, phát huy thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), là trận đánh quyết định nhất của cuộc chiến đấu 30 năm (1945-1975) gian khổ, ác liệt, giành lại và giữ vững nền độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc. Từ đây, cả dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên mới: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đẩy lùi nghèo nàn, lạc hậu, tạo lập cuộc sống ấm no, hạnh phúc, công bằng, dân chủ, văn minh.
- Qua cuộc chiến đấu và chiến thắng, Đảng ta, nhân dân ta, quân đội ta, cả dân tộc ta và mỗi người Việt Nam được rèn luyện cả về phẩm chất và tài năng, càng nhận thức sâu sắc hơn, đúng đắn hơn vị trí, khả năng và sức mạnh của mình trong thời đại mới.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã nâng vị thế chính trị của Việt Nam trên thế giới lên một tầm cao mới và là niềm tự hào của mỗi người dân trong thế kỷ XX và mai sau.
Đối với thế giới
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là một thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã đập tan cuộc phản công lớn nhất, kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, của chủ nghĩa đế quốc vào trào lưu cách mạng của thời đại mà mũi nhọn là phong trào giải phóng dân tộc, mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước làm sáng tỏ tính hiện thực, tính phổ biến của xu thế phát triển của loài người tiến bộ, góp phần động viên cổ vũ các dân tộc dũng cảm, kiên cường giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, thực hiện công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người và trực tiếp góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc của nhân dân hai nước láng giềng Lào và Campuchia anh em.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là biểu tượng mới về sức mạnh của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, làm tiêu tan huyền thoại về sức mạnh của đế quốc Mỹ.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã nêu bật một chân lý: Trong thời đại ngày nay, một dân tộc nước không rộng, người không đông, kinh tế kém phát triển, song dân tộc ta đã đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một đảng mác xít-lêninít, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực xâm lược.
2. Nguyên nhân thắng lợi
1. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng ta nhận rõ sứ mạng, trọng trách lịch sử của mình trước giai cấp, trước dân tộc và phong trào cách mạng thế giới, đã ra sức xây dựng mình vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, theo đúng nguyên lý xây dựng Đảng macxít-lêninnít. Do vậy, đã đáp ứng ngày càng đầy đủ những yêu cầu rất khắt khe về sức mạnh tiền phong chiến đấu của một đảng giữ vai trò quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc ta. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã kịp thời đưa ra đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, đồng thời kiên quyết chỉ đạo thực hiện bằng được mục tiêu, con đường nhiệm vụ cách mạng đặt ra.
2. Nhân dân và các LLVT nhân dân ta đã phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm ngoan cường, bền bỉ, lao động quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH và vì quyền sống của con người.
Đó là thắng lợi của cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh, ngoan cường, bền bỉ và anh dũng; thắng lợi của bản lĩnh và trí tuệ của nhân dân và các LLVT nhân dân ta trong cả nước, của hàng chục triệu đồng bào yêu nước trên tuyến đầu Tổ quốc đã nêu cao tấm gương kiên cường, bất khuất. Người trước ngã, người sau tiến lên đạp bằng mọi chông gai thử thách, quyết tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt. Đồng bào, chiến sĩ miền Bắc luôn hướng về miền Nam ruột thịt, động viên con em lên đường "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", lao động quên mình, tạo ra cơ sở vật chất xây dựng CNXH, thực sự là hậu phương lớn chi viện toàn diện, liên tục cho cuộc kháng chiến ở miền Nam. Đồng thời, trực tiếp đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của địch, bảo vệ vững chắc miền Bắc XHCN.
3. Cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, trên dưới một lòng triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đứng trước những khó khăn thử thách, truyền thống quý báu đó càng được phát huy cao độ. Trong Đảng, đoàn kết thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng đã tạo nên sức mạnh lãnh đạo cách mạng nâng cao lòng tin của toàn dân với Đảng và trở thành động lực xây dựng khối đoàn kết toàn dân. Nhân dân ta đoàn kết trong chiến đấu, lao động sản xuất, khắc phục khó khăn, thiếu thốn, thống nhất về chính trị, về nhận thức và hành động, trên cơ sở tình cảm giai cấp, tình đồng chí, nghĩa đồng bào. Điểm nổi bật về sự đoàn kết thống nhất là tình đoàn kết Bắc - Nam. Sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã trở thành nhân tố quan trọng, sức mạnh to lớn, góp phần đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
4. Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta ra sức tăng cường đoàn kết quốc tế, coi đó là một bộ phận hợp thành của đường lối chống Mỹ, cứu nước và đặt hoạt động đối ngoại, đấu tranh ngoại giao thành một mặt trận có tầm quan trọng chiến lược, góp phần tạo nên sự vượt trội về thế và lực của nhân dân ta; tạo nên một mặt trận rộng lớn của nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam và ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược.
5. Đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia.
Phát huy truyền thống láng giềng anh em gắn bó với nhau từ xa xưa, Đảng và nhân dân ta đã chủ động đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia. Sự đoàn kết liên minh đó được thể hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, lợi ích của mỗi nước, cùng nhau đoàn kết chống kẻ thù chung, bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia cho cả ba dân tộc.
Các cuộc nổi dậy của đồng bào dân tộc thiểu số diễn ra trên những địa bàn rộng lớn; lợi dụng địa hình rừng núi có ý nghĩa:
Gây cho địch nhiều thiệt hại
Buộc địch phải rút lui hoặc nhân nhượng một số quyền lợi.