Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
tham khảo nha
Harry Potter and the Philosopher’s Stone is a (1) fantasy film directed by Chris
Columbus. It is (2) based on J. K. Rowling’s 1997 novel of the same name.
The film’s story follows Harry Potter’s first year at Hogwarts School of Witchcraft and Wizardry as he discovers that he is a (3) wizard and has magical powers. The film (4)stars Daniel Radcliffe as Harry Potter, with Rupert Grint as Ron Weasley,and Emma Watson as Hermione Granger.
The film was (5) released to cinemas in November 2001. It earned over US$976
million at the box office (6) and received generally positive reviews from
the (7) critics. The film was nominated for many awards, including (8) academy
Awards for Best Original Score, Best Art Direction and Best Costume Design.
Harry Potter and the Philosopher’s Stone is a (1) fantasy film directed by Chris
Columbus. It is (2) based on J. K. Rowling’s 1997 novel of the same name.
The film’s story follows Harry Potter’s first year at Hogwarts School of Witchcraft and Wizardry as he discovers that he is a (3) wizard and has magical powers. The film (4)stars Daniel Radcliffe as Harry Potter, with Rupert Grint as Ron Weasley,and Emma Watson as Hermione Granger.
The film was (5) released to cinemas in November 2001. It earned over US$976
million at the box office (6) and received generally positive reviews from
the (7) critics. The film was nominated for many awards, including (8) academy
Awards for Best Original Score, Best Art Direction and Best Costume Design.
1. had heard
2. had already written
3. got
4. was travelling
5. reached
6. had invented
7. imagined
8. became
9. were enjoying
10. was thinking
Until a few years ago, no one had heard of Harry Potter, the young wizard and hero of the children's book Harry Potter and the Philosopher's Stone. The writer, J.K. Rowling, had already written several stories and books, but this was the first book that was published. She got the idea for the story of a wizard at a magic school while she was traveling on a train to London. By the time the train reached King's Cross station, she had invented most of the characters. When the book was published in 1997, no one imagined it would be such a tremendous success, but it quickly became a bestseller. While millions of young readers in many countries were enjoying her first Harry Potter book, J.K. Rowling was thinking of ideas for the next book in this incredibly popular series.
1. What kind of film is Harry Potter and the Sorcerer's Stone?
("Harry Potter và hòn đá Phù Thủy" là loại phim gì?)
- It's a fantasy.
(Nó là phim viễn tưởng.)
2. Who is Daniel Radcliffe?
(Daniel Radcliffe là ai?)
- Daniel Radcliffe is one of the stars in the film.
(Daniel Radcliffe là một trong những ngôi sao điện ảnh trong phim.)
3. What is the film about?
(Phim nói về điều gì?)
- The film tells the story of Harry Potter. He's a powerful wizard. He is a student at a school for wizards and learns about himself, his family, and the bad things happening around him.
(Phim kể về câu chuyện của Harry Potter. Cậu ấy là một phù thủy mạnh mẽ. Cậu là học sinh của một trường học dành cho pháp sư và tìm hiểu về bản thân, gia đình và những điều tồi tệ xảy ra xung quanh cậu ta.)
4. What do people say about the film?
(Mọi người nói gì về bộ phim?)
- People say it's a must-see for teens.
(Mọi người nói rằng đó là một bộ phim đáng xem dành cho thanh thiếu niên.)
6. My grandmother, who is 80 years old now, abroad.
A. was never going B. never went C. has never been D. would never be
7. Harry Potter and the Goblet of Fire by J K Rowling.
A. was written B. written C. wrote D. writing
8. Thieves over a billion dollars in cash from the Central Bank.
A. stolen B. were stolen C. have stolen D. was been stolen
9. There are a number of interesting at my party.
A. people B. person C. peoples D. personality
10. Thanks giving is celebrated with a feast among family and friends
A. tradition B. traditional C. traditionally D. traditionly
11. We were all in the excellent dancing performance.
A. bored B. boring C. interested D. interesting
12. The scene from “The Ring” was so that I closed my eyes.
A. amazing B. amazed C. frighten D. frightening
13. Daniel Radcliffe is so young. , he performs excellently
A. Although B. However C. In spite of D. Because
14. Tom didn’t use to a boat when he was young.
A. sail B. sailed C. sailing D. sails
1 began
2 was written
3 won't agree
4 went
5 aren't working
6 were destroyed
7 isn't sold
8 to go
9 watching
1. famous
2. before
3. playing
4. later
5. Luckily
6. idea
7. appeared
8. hard
9. had
10. bookstore
1.famous
2.born
3.full
4.after ( hoặc later)
5.broke
6.idea
7.appeared
8.hard
9.refused
10.bookstore (store thì hơi chung quá, mà đề cho mình dữ liệu để khẳng định là trong chính xác là bookstore rồi nên viết như trên cho hợp lý nhất có thể)
XIX. Supply the correct form of the verb
1. Quoc Tu Giam _______________was built________(build) in 1076.
2. Harry Potter Books __________was written___________(write) by J.K. Rowling.
3. The classrooms ____________are cleaned____________(clean) every day.
4. A primary school ________will be built_______________(build) here soon.
5. Roller skates _________were invented_______________(invent) in 1949.
6. These tablets _________should be taken____________(should / take) daily.
7. We can’t go to the football match. All the tickets ________________were sold____________(sell).
8. We can’t use my office at the moment. It __________is being cleaned________________(clean)
XX. Write the correct form or tense of the verbs in brackets.
1. They ______has renamed___ (rename) this building in the previous century.
2. Tommy ___doesn't like_____ (not, like) this lemonade because it’s sour.
3. She ____bought___ (buy) some vegetables and then left for home.
4. The temple _____was constructed___ (reconstruct) some years ago, so it looks nicer.
5. I ______don't usually go__ (not, usually go) to school by bus because it takes a lot of time.
6. Rice noodles ___are made_____ (make) from the best variety of rice.
7. This is the most delicious sticky rice I ____have ever tried___ (ever, try).
8. The University of Indochina ______was built___ (build) in Ha Noi in 1906.
9. What ___will you take____ (you, take) if you have a trip to some cultural places?
10. The academy __was used_____ (use) to educate young men in the past.
Thằng điên
mày cứ dịch đi xong tao dịch sau
kb 0
Sai chính tả nhiều thế !
Ông bà Dursley, nhà số 4 ñường Privet Drive, tự hàomà nói họ hoàn toàn bình thường,
cám ơn bà con quan tâm. Bà con ñừng trông mong gì họ tin vào những chuyện kỳ lạ
hay bí ẩn, ñơn giản là vì họ chẳng hơi ñâu bận tâm ñến mấy trò vớ vẩn ñó.
Ông Dursley là giám ñốc một công ty gọi là Grunnings, chuyên sản suất máy khoan.
Ông là một người cao lớn lực lưỡng, cổ gần như không có, nhưng lại có một bộ ria mép
vĩ ñại. Bà Dursley thì ốm nhom, tóc vàng, với một cái cổ dài gấp ñôi bình thường, rất
tiện cho bà nhóng qua hàng rào ñể dòm ngó nhà hàng xóm. Hai ông bà Dursley có một
cậu quý tử tên là Dudley, mà theo ý họ thì không thể có ñứa bé nào trên ñời này ngoan
hơn ñược nữa.
Gia ñình Dursley có mọi thứ mà họ muốn, nhưng họ cũng có một bí mật, và nỗi sợ hãi
lớn nhất của họ là cái bí mật ñó bị ai ñó bật mí. Họ sợ mình sẽ khó mà chịu ñựng nổi
nếu câu chuyện về gia ñình Potter bị người ta khám phá. Bà Potter là em gái của bà
Dursley, nhưng nhiều năm rồi họ chẳng hề gặp gỡ nhau. Bà Dursley lại còn giả ñò như
mình không có chị em nào hết, bởi vì cô em cùng ôngchồng vô tích sự của cô ta chẳng
thể nào có ñược phong cách của gia ñình Dursley.
Ông bà Dursley vẫn rùng mình ớn lạnh mỗi khi nghĩ ñến chuyện hàng xóm sẽ nói gì nếu
thấy gia ñình Potter xuất hiện trước cửa nhà mình. Họ biết gia ñình Potter có một ñứa
con trai nhỏ, nhưng họ cũng chưa từng nhìn thấy nó.ðứa bé ñó cũng là một lý do khiến
họ tránh xa gia ñình Potter: Họ không muốn cậu quý tử Dudley chung chạ với một
thằng con nít nhà Potter.
Vào một buổi sáng thứ ba xám xịt âm u, ông bà Dursley thức dậy, chẳng hề cảm thấy
chút gì rằng bầu trời ñầy mây kia ñang báo hiệu những ñiều lạ lùng bí ẩn sắp xảy ra
trên cả nước Anh. Ông Dursley ậm ừ khi chọn cái cà-vạt chán nhất thế giới ñeo vào cổ
ñi làm. Bà Dursley thì lách chách nói trong lúc vậtlộn với cậu quý tử Dudley ñang gào
khóc vùng vẫy, không chịu ngồi ăn sáng tử tế. Khôngmột ai ñể ý ñến một con cú to và
ñen thui bay xẹt qua cửa sổ.
Tám giờ rưỡi, ông Dursley sách cặp, hửi cồ bà Dursley một cái và cố hôn cậu quý tử
trước khi ñi làm. Nhưng cậu Dudley ñang chơi trò ñánh trống thổi kèn, phun phèo phèo
thức ăn và vun vãi mọi thứ tứ tung, kể cả cái hôn của cha. Ông Dursley vừa cười khoái
chí: “Thằng chó con”, vừa ñi ra khỏi nhà. Ông lên xe, lái ra khỏi ngôi nhà số 4 của mình.
Chính ở ngay góc ñường, ông nhận thấy dấu hiệu ñầu tiên của chuyện lạ: Một con mèo
xem bản ñồ. Thoạt tiên, ông Dursley không nhận ra ñó là chuyện kỳ quái. Thế rồi ông
giật mình quay lại nhìn lần nữa. Có một con mèo hoang ñứng ở góc ñường Privet Drive,
nhưng bây giờ lại chẳng có tấm bản ñồ nào cả! Chẳnglẽ chuyện ñó là do ông tưởng
tượng ra ư? Hay ánh sáng ñã làm ông lóa mắt? Ông Dursley chớp chớp mắt rồi chăm
chú nhìn con mèo. Nó cũng nhìn lại ông.
Ông lái xe vòng qua góc ñường, ñi tiếp, và tiếp tụcnhìn con mèo qua kính chiếu hậu.
Nó lúc ấy ñang ñọc bảng tên ñường Privet Drive- À không, ngó bảng tên ñường chứ,
mèo ñâu có thể ñọc bảng tên ñường hay xem bản ñồ! Ông Dursley lắc lắc ñầu, ñuổi con
mèo ra khỏi óc. Khi lái xe vào thành phố, ông khôngmuốn nghĩ ñến cái gì khác hơn là
những ñơn ñắt hàng máy khoan mà ông mong có ñược nhiều thật nhiều trong ngày
hôm ñó.
Nhưng sắp vào tới thành phố, chợt có một việc khiếnông không còn tâm trí nghĩ ñến
những chiếc máy khoan nữa: lúc ngồi ñợi trong xe, giữa dòng xe cộ kẹt cứng, ông
không thể không nhận thấy hình như xung quanh có rất nhiều người ăn mặc lạ lùng
ñang lảng vảng. Tất cả bọn họ ñều mặc áo trùm kín. Ông Dursley vốn ñã không chịu nổi
bọn người ăn mặc dị hợm- những thứ lôi thôi mà ñám trẻ vẫn mặc!- nên ông cho là lần
này chắc lại là một thời trang ngu ngốc nào ñó xuấthiện.
Ông sốt ruột nhịp ngón tay trên tay lái xe hơi và ánh mắt ông ñụng nhằm một cặp quái
ñang chụm ñầu ñứng gần ñó. Họ ñang thì thầm với nhau coi bộ rất kích ñộng. Ong
Dursley giận sôi lên khi nhận thấy cặp này cũng chẳng còn trẻ gì: Coi, gã ñàn ông trông
còn già hơn cả ông, vậy mà lại khoác áo trùm màu xanh ngọc bích! Chẳng ra thể thống
gì cả! ðầu óc gì thế chứ! Nhưng ông Dursley chợt giật mình- hình như những người này
ñang tụ tập vì một chuyện gì ñó… Ừ, hình như vậy!…
Dòng xe cộ thông, và chỉ vài phút sau ông Dursley ñã lái xe vào bãi ñậu của hãng
Grunnings, ñầu óc ông giờ ñã quay trở lại với mấy cái máy khoan.
Trong văn phòng ở lầu chín, ông Dursley thường vẫn hay ngồi quay lưng lại cửa sổ. Giả
sử không ngồi kiểu ñó, thì rất có thể sáng hôm ấy ông sẽ khó tập trung ñược vô mấy cái
máy khoan. Bởi ngồi như vậy, nên ông ñã không thấy,bên ngoài cửa sổ, một ñàn cú
bay lượn xao xác giữa ban ngày. Mọi người dưới phố ñều trông thấy, nhưng ông Dursley
thì không. Người ta chỉ trỏ kinh ngạc, thậm chí há hốc mồm khi ngước nhìn ñàn cú bay
vụt qua ngay trên ñầu, nhiều người trong số ñám ñông ấy thậm chí chưa từng thấy một
con cú vào nửa ñêm, ñừng nói chi giữa ban ngày như thế này.
Ai cũng thấy chỉ riêng ông Dursley là không thấy. Ông ñã trãi qua một buổi sáng hoàn
toàn bình thường, không có cú. Sáng ñó, ông quát tháo năm người khác nhau. Ông gọi
nhiều cú ñiện thoại quan trọng và la hét thêm một hồi. Tâm trạng ông sảng khoái cho
ñến bữa ăn trưa, và tự nhủ mình phải duỗi chân cẳngmột chút, băng qua ñường, mau
cho mình một cái bánh ở tiệm bánh mì.
Ông hầu như ñã quên bén những người khoác áo trùm kín cho tới khi ñi ngang qua một
ñám người ñứng gần tiệm bánh. Cả bọn ñều mặc áo trùm. Ông nhìn họ giận dữ. Ông
không biết tại sao, nhưng họ làm ông khó chịu quá. Bọn này thì thào với nhau có vẻ rất
kích ñộng, mà ông thì không nghe ñược tí teọ nào. Chỉ ñến lúc trên ñường về từ tiệm
bánh mì, ñi ngang qua ñám người khoác áo trùm, ông Dursley mới nghe lõm bỏm ñược
những gì họ nói:
- Gia ñình Potter, ñúng ñấy. Tôi nghe ñúng như thế…
- … Ừ, con trai họ, Harry…
Ông Dursley ñứng sững lại, chết lặng. Ông ngợp trong nỗi sợ hãi. Ông ngoái nhìn ñám
người ñang thì thào như muốn nói gì với họ, nhưng rồi lại thôi.
Ông băng nhanh qua ñường, vội vã về văn phòng, nạt viên thư ký là ñừng có quấy rầy
ông, rồi cầm ñiện thoại lên, sắp quay xong số gọi về nhà thì lại ñổi ý. Ông ñặt ống nghe
xuống, tay rứt rứt hàng ria, suy nghĩ… Không, ông hơi hồ ñồ. Potter ñâu phải là một cái
họ hiếm hoi gì. Ông dám chắc là có hàng ñống người mang họ Potter và ñặt tên con
mình là Harry. Nghĩ ñi nghĩ lại thật kỹ, ông thấy cũng không chắc thằng cháu của ông
tên là Harry. Ông chưa từng gặp nó. Biết ñâu nó tênlà Harvey hay Harold. Chẳng việc
gì ông phải làm phiền ñến bà Dursley; bả luôn luôn nổi giận và buồn bực khi nghe nhắc
ñến cô em gái của mình. Ông cũng chẳng trách bà, ông cũng sẽ thế thôi nếu ông có
một cô em gái như thế… Nhưng mà em của bà hay em của ông thì ñằng nào cũng vậy.
Nhưng… cái bọn khoác áo trùm!…
Buổi trưa ñó, ông bỗng thấy khó mà tập trung vô mấycái máy khoan, và khi rời sở làm
lúc năm giờ chiều thì ông trở nên lo âu và căng thẳng ñến nỗi ñâm sầm vào một người
ở ngoài cửa.
- Xin lỗi!
Ông càu nhàu với người ñàn ông nhỏ thó bị ông ñâm vào làm cho suýt ngã bổ ra sau.
Nhưng chỉ vài giây sau, ông Dursley chợt nhận ra làgã ñàn ông ñó cũng khoác áo trùm
màu tím. Gã không tỏ vẻ cáu giận về chuyện gã suýt bị lăn quay ra ñất. Ngược lại, mặt
gã giãn ra một nụ cười toe toét, và gã nói với một giọng mơ hồ khiến mọi người ñi
ngang phải ngoái nhìn.
- ðừng lo, thưa ngài, hôm nay không có gì có thể làm tôi nổi cáu ñược ñâu. Vui lên ñi.
Bởi vì kẻ – mà – ai – cũng – biết – là – ai – ñấy cuối cùng ñã biến rồi! Ngay cả dân
Muggle như ngài cũng nên ăn mừng cái ngày vui vẻ, rất vui vẻ này ñi.
Và gã ñàn ông ôm ngang người ông Dursley một cách thân tình rồi bỏ ñi.
Ông Dursley ñứng như trời trồng tại chỗ. Ông bị mộtngười hoàn toàn xa lạ ôm thân
tình một cái! Ông lại bị gọi là dân Muggle, không biết là cái quỷ gì? Ông ngạc nhiên quá.
Vội vã ra xe, ông lái về nhà, hy vọng là những gì xảy ra chẳng qua là do ông tưởng
tượng mà thôi. Nhưng mà trước nay, cókhi nào ông công nhận là có trí tưởng tượng ở
trên ñời ñâu!
Khi cho xe vào ngõ nhà số 4, cái trước tiên mà ông nhìn thấy – và cũng chẳng làm cho
ông dễ thở hơn chút nào – là con mèo hoang to tướngmà ông ñã thấy hồi sáng. Con
mèo ñang ngồi chong ngóc trên bờ tường khu vườn nhàông. Ông chắc là ñúng con
mèo hồi sáng, bởi quanh mắt nó cũng có viền hình vuôn. Ông Dursley xuỵt lớn:
- Xù.
Con mèo chẳng thèm nhúc nhíc. Nó còn nhìn lại ông một cách lạnh lùng. Ông Dursley
thắc mắc. Không biết có phải kiểu cư xử thông thường của mèo là vậy? Cố gắng lấy lại
vẻ tự chủ, ông ñĩnh ñạc bước vào nhà. Ông vẫn còn quyết tâm là sẽ không nói gì với vợ
về chuyện Potter.
Bà Dursley cũng trãi qua một ngày bình thường tốt ñẹp. Trong bữa ăn tối, bà kể cho
chồng nghe chuyện rắc rối của nhà hàng xóm và con gái của họ, cùng chuyện hôm nay
Dudley học nói ñược thêm hai từ mới (“hổng thèm”). Ông Dursley cố gắng cư xử như
bình thường. Khi bé Dudley ñược ñặt lên giường ngủ thì ông vào phòng khách ñể xem
bản tin buổi tối.
- Và cuối cùng, thưa quý vị khán giả, những người quan sát cầm ñiểu khắp nơi báo cáo
là chim cú trên cả nước ñã hành ñộng hết sức bất thường suốt ngày hôm nay. Mặc dù
cú thường ñi săn vào ban ñêm và ít khi xuất hiện vào ban ngày, nhưng cả ngày nay, từ
sáng sớm, ñã có hàng trăm con cú bay tứ tán khắp mọi hướng. Các chuyên viên không
thể giải thích nổi tại sao cú lại thay ñổi thói quen thức ngủ như vậy.
Phát ngôn viên nói tới ñây tự thưởng cho mình một nụ cười rồi tiếp:
- Cực kỳ bí hiểm. Và bây giờ là phần dự báo thời tiết của Jim McGuffin. Liệu ñêm nay
còn trận mưa cú nào nữa không Jim?
Người dự báo thời tiết ñáp:
- À, tôi không rành vụ ñó lắm,nhưng ngày hôm nay không chỉ có cú hành ñộng quái
chiêu, mà thời tiết cũng tỏ ra bất bình thường. Nhiều quan sát viên ở các vùng khác
nhau ñã gọi ñiện thoại phàn nàn với tôi là thay vì một trận mưa như tôi ñã dự báo ngày
hôm qua, thì họ lại nhận ñược một trận sao băng. Không chừng người ta ăn mừng lễ
ñốt pháo bông quá sớm, nhưng thưa bà con, tuần sau mới tới ngày ñốt pháo bông mà!
Dù vậy tôi xin cam ñoan là thời tiết tối nay sẽ rấtẩm ướt.
Ông Dursley ngồi như ñóng băng trên ghế bành. Sao băng trên khắp bầu trời Anh – cát
– lợi à? Cú bay lượn vào ban ngày ư? Những con người khoác áo trùm bí ẩn khắp nơi
nữa chứ. Và… và những câu chuyện thì thào về gia ñình Potter…
Bà Dursley bưng hai tách trà vào phòng. Không ổn rồi. Ông phải nói gì với bà thôi. Ông
tằng hắng lấy giọng:
- Ờ… em à… lâu nay em không nghe nói gì về em gái của em phải không?
- Không.
ðúng như ông “mong ñợi”, bà Dursley giật mình và ñổquạu. Chẳng phải là lâu nay cả
hai ñã ngầm coi như bà chẳng hề có chị em gì hết sao? Giọng bà sắc lẻm:
- Mà sao?
Ông Dursley lầu bầu:
- À, chỉ là ba mớ tin tức… cười. Nào là cú… sao băng… lại có cả ñống bọn khoác áo trùm
nhôn nhạo dưới phố hôm nay…
- Thì sao? – Bà Dursley ngắt ngang.
Ông Dursley vội phân bua:
- Ờ… anh chỉ nghĩ… có thể… có chuyện gì ñó dính dáng tới dì nó… em biết ñó… dì nó…
Bà Dursley nhấp môi son vào tách trà. Ông Dursley băn khoăn không biết liệu mình có
dám nói với vợ là ñã nghe thiên hạ bàn tán về cái tên “Potter” không.Cuối cùng ông
không dám. Thay vào ñó, ông cố làm ra vẻ hết sức bình thường:
- Thằng con trai của họ… chắc là nó bằng tuổi bé Dudley nhà mình, phải không em?
Bà Dursley nhấm nhẳn:
- Có lẽ
- Nó tên gì? Howard phải không?
- Harry. Một cái tên tầm thường xấu xí.
- Ờ, xấu thật. Anh hoàn toàn ñồng ý với em.
Ông không nói thêm lời nào nữa về ñề tài này khi cảhai lên lầu vào phòng ngủ. Trong
khi bà Dursley vào buồn tắm, ông Dursley ñứng bên cửa sổ nhìn ra vườn. Con mèo vẫn
còn ñó. Nó ñang chăm chu ngóng ra ñường Privet Drive như thể ñang chờ ñợi cái gì
vậy.
Hay là ông chỉ tưởng tượn ra mọi thứ? Tất cả những chuyện vớ vẩn này thì có liên quan
gì tới gia ñình Potter nào? Nếu có… nếu mà có dính dáng với cặp phù… Oâi, nghĩ tới ñó
ông ñã cảm thấy không chịu nổi.
Ông bà Dursley lên giường ngủ. Bà Dursley ngủ ngay tức thì, còn ông Dursley thì cứ
nằm trăn trở mãi. Cuối cùng một ý nghĩ dễ chịu ñã giúp ông ngủ thiếp ñi, ấy là nếu mà
gia ñình Potter có dính dáng ñến tất cả những chuyện nhảm nhí ấy thì họ cũng không
có lý do gì ñể dây dưa ñến gia ñình ông. Gia ñình Potter biết rất rõ bà Dursley nghĩ như
thế nào về họ và bọn người như họ. Ông Dursley thấykhông có lý do gì ñể mình và vợ
mình có thể bị khổ sở về những gì ñang diễn ra – Ông ngáp và trở mình – Chuyện ñó
không thể nào ảnh hưởng ñến họ.
Nhưng ông ñã lầm.
Ông Dursley cuối cùng cũng có thể tóm ñược giấc ngủ, dù một cách khó khăn. Nhưng
con mèo ngồi trên bờ tường ngoài thì không tỏ vẻ gìbuồn ngủ cả. Nó cứ ngồi bất ñộng,
mắt ñăm không chớp về góc ñường Privet Drive. Nó không ñộng ñậy ngay cả khi có
tiếng cửa xe ñóng sầm bên kia ñường. Không nhúc nhích ngay cả khi có hai con cú vụt
qua phía trên ñầu. Và chính xác là ñến gần nữa ñêm con mèo ấy mới nhúc nhích.
Ấy là lúc một ông già xuất hiện ở góc ñường mà con mèo ñang ngóng về. Cụ xuất hiện
thình lình và lặng lẽ như thể từ mặt ñất chui lên. ðuôi con mèo nhẹ ve vẩy và mắt nó
nhíu lại.
Xưa nay trên ñường Privet Drive chưa từng có một người nào trông kỳ quái như cụ già
ấy lại qua. Cụ ốm, cao, rất già, căn cứ vào mái tócvà chòm râu bạc phơ dài ñến nỗi cụ
phải giắt chúng vô thắt lưng. Cụ mặc áo thụng dài, khoát áo trùm màu tím cũng dài
quét ñất, mặc dù cụ ñã mang ñôi giày bốt cao gót lêu nghêu. ðôi mắt xanh lơ của cụ
sáng rỡ và lấp lánh phía sau cặp kính có hình dạng nữa vành trăng. Mũi cụ thì vừa dài
vừa khoằm như thể cụ ñã từng bị gãy mũi ít nhất hailần. Tên cua cụ là Albus
Dumbledore.
Albus Dumbledore dường như không nhận thấy là mình ñã ñến con ñường mà từ tên họ
cho ñến ñôi bốt của cụ không hề ñược hoan nghênh chào ñón. Cụ ñang bận lục lọi
trong chiếc áo trùm của cụ, tìm kiếm cái gì ñó. Rồiñột nhiên, có vẻ như cụ nhận ra là
mình ñang bị quan sát, bởi vì cụ thình lình ngước nhìn lên con mèo vẫn ñang ngó cụ từ
bờ tường nhà Dursley. Aùnh mắt của con èmo có vẻ làm cụ thích thú. Cụ chắc lưỡi lẩm
bẩm:
- Lẽ ra mình phải biết rồi chứ!
Cụ ñã tìm ñược cái mà cụ lục lọi nãy giờ trong chiếc áo trùm. Nó giống như cái bật lửa
bằng bạc. Cụ giơ nó lên cao và bấm. Ngọn ñèn ñường gần nhất tắt phụt. Cụ bấm lần
nữa, ngọn ñèn ñường kế tiếp tắt ngấm. Cụ bấm mười hai lần như thế, cho ñến khi ánh
sáng còn lại trên cả con ñường chỉ còn là hai ñốm sáng long lanh ở phái xa – ñó là hai
con mắt mèo ñang nhìn cụ. Nếu bây giờ mà có ai nhìnqua cửa sổ ra ñường, thì dù có
con mắt tọc mạch như bà Dursley cũng chịu, không thể thấy ñược cái gì ñang xảy ra. Cụ
Albus Dumbledore cất cái tắt – lửa vào áo trùm và ñi về phía ngôi nhà số 4 ñường Privet
Drive. Cụ ngồi xuống trên bờ tường, cạnh con mèo. Cụ không nhìn nó, nhưng ñược một
lúc, cụ nói: “Thật là hay khi gặp bà ở ñây ñấy, giáo sư McGonagall!”
Cụ quay sang ñể mỉm cười với con mèo, nhưng chẳng còn mèo nào cả. Thay vì vậy cụ
ñang mỉm cười với một bà lão trông ñứng ñắn, ñeo kính gọng vuông y như cái dấu vuôn
quanh mắt con mèo. Bà cũng khoác áo trùm, màu ngọc bích. Tóc bà bới thành một búi
chặt. Bà có vẽ phật ý rõ rệt:
- Làm sao ông biết con mèo ñấy là tôi?
- Thưa bà giáo sư yêu quý của tôi, hồi nào tới giờ tôi chưa từng thấy một con mèo nào
ngồi cứng ñờ như thế.
Giáo sư McGonagall nói:
- Ông mà ngồi cả ngày trên bờ tường thì ông cũng cứng ñờ thế thôi.
- Cả ngày?trong khi lẽ ra bà ñang phải mở tiệc ăn mừng chứ? Trên ñường ñến ñây, tôi
ñã gặp ít nhất cả chục ñám tiệc tùng linh ñình rồi.
Giáo sư McGonagall hít hơi một cách giận giữ và nóimột cách không kiên nhẫn:
- Vâng, mọi người ăn mừng, ñược thôi. ðáng lẽ ông phải thấy là họ nên cẩn thận một
chút chứ – ngay ca dân Muggles cũng nhận thấy có chuyện gì ñó ñang xảy ra. Họ thông
báo trong chương trình thời sự ñấy.
Bà hất ñầu về phía cửa sổ phòng khách tối om của gia ñình Dursley.
- Tôi nghe hết.Những ñàn cú… sao băng… Chà, họ không hoàn toàn ngu ngốc cả ñâu.
Họ ñã nhận ra có ñiều gì ñó. Sao băng… Tôi cá ñó làtrò của Diggle, hắn thật chẳng có
ñầu óc gì cả.
Albus Dumbledore nhẹ nhàng bảo:
- Bà không thể trách như vậy ñược. ðã mười một năm nay chúng ta chẳng có dịp nào
ñể vui mừng mà!
Giáo sư McGonagall vẫn cáu kỉnh:
- Tôi biết. Nhưng ñó không phải là lý do ñể phát ñiên lên. ðám ñông cứ nhởn nhơ tụ tập
bừa bãi trên ñường phố giữa ban ngày, thậm chí không thèm mặc quần áo của dân
Muggle ñể ngụy trang, lại còn bàn tán ầm ĩ.
Bà liếc sang cụ Albus Dumbledore ngồi bên, như thể hy vọng cụ sẽ nói với bà ñiều gì,
nhưng cụ không nói gì cả, nên bà nói tiếp:
- Giá mà khi kẻ – mà – ai – cũng – biết – là – ai –ñấy biến ñi hẳn, người Muggle mới
phát hiện ra chúng ta thì hay biết mấy. Nhưng tôi không chắc là hắn ñã chết thật chưa
hả ông Dumbledore?
- Chắc chắn như vậy rồi. Thật là phước ñức cho chúng ta! Bà có dùng giọt chanh
không?
- Giọt gì?
- Giọt chanh. ðó là một loại keo của dân Muggle mà tôi rất khoái.
- Không cám ơn.
Giáo sư McGonagall lạnh lùng từ chối, bà không nghĩlà nhấm nháp kẹo lúc này lại thích
hợp.
- Như tôi nói ñấy, ngay cả nếu như kẻ – mà – ai – cũng – biết – là – ai – ñấy ñã biến…
- Ôi, giáo sư yêu quý của tôi, một người có ñầu óc như bà có thể gọi hắn bằng tên cúng
cơm chứ? Mớ bá láp kẻ – mà – ai – cũng – biết – là – ai – ñấy thiệt là nhảm nhí. Mười
một năm nay tôi ñã chẳng bảo mọi người cứ gọi hắn ñúng theo tên của hắn: Voldemort
sao?
Giáo sư McGonagall e dè nhnìn quanh. Nhưng cụ Dumbledore có vẻ như chẳng ñể ý gì,
cụ ñang chăm chú gỡ hai viên kẹo dính nhau và cụ nói tiếp:
- Nếu mà chúng ta cứ gọi bằng: kẻ – mà – ai – cũng – biết – là – ai – ñấy thì mọi sự cứ
rối beng lên. Tôi thấy chẳng có gì ñể sợ khi gọi bằng tên cúng cơm của Voldemort.
Giáo sư McGonagall nói, giọng nữa lo lắng nữa ngưỡng mộ:
- Tôi biết ông không sợ. Nhưng ông thì khác. Mọi người ñều biết ke û- ma ø- ai – cũng –
biết – là… thôi ñược, goi là Voldemort ñi, hắn chỉ sợ có mỗi mình ông mà thôi.
Cụ Albus Dumbledore bình thản nói:
- Bà tâng bốc tôi quá. Voldemort có những quyền lựctôi không bao giờ có.
- Ấy là chỉ bởi vì ông… ừ, ông quá cao thượng nên không xài tới những quyền lực ñó.
- Cũng may là trời tối nhé. Kể cũng lâu rồi tôi chưa ñỏ mặt, từ cái lần bà Pomfrey nói bả
khoái cái mũ trùm tai của tôi.
Giáo sư McGonagall liếc cụ Dumbledore một cái sắc lẻm.
- Mấy con cú lượn vòng vòng chỉ chờ tung tin vịt ñấy. Ông biết mọi người ñang nói gì
không? Về vì sao hắn phải biến ñi ấy? Về cái ñiều ñã chặn ñứng ñược hắn ấy?
Có vẻ như giáo sư McGonagall ñã gạt tới ñiểm then chốt mà bà muốn tranh luận. ðó là
lý do khiến bà ñã phải ngồi chờ suốt cả ngày trên bờ tường cứng và lanh lẽo này. Rõ
ràng là chuyện mà mọi người ñang bàn tán, cho dù làchuyện gì ñi nữa, bà cũng không
vôi tin cho ñến khi Dumbledore nói với bà là chuyệnñó có thật. Tuy nhiên cụ
Dumbledore vẫn ñang bận lựa một viên kẹo khác chứ không trả lời.
- Chuyện mà họ ñang bàn tán ấy,” bà McGonagall nhấnmạnh, “là tối hôm qua
Voldemort ñã ñến Hố Thần. Hắn ñi tìm gia ñình Potter. Nghe ñồn rằng vợ chồng Potter
ñã… ñã…, họ ñồn thôi, ñã… chết rồi!
Cụ Dumbledore cúi ñầu. Giáo sư McGonagall há hốc miệng, ngẹn ngào:
- Vợ chồng Potter… Tôi không thể tin ñược… Tôi không muốn tin… Ôi, ông
Dumbledore…
Cụ Dumbledore duỗi tay vỗ nhê lên vai bà giáo sư, cụ chậm rãi nói:
- Tôi biết… Tôi biết…
Giọng giáo sư McGonagall run run tiếp tục:
- Mà chuyện chưa hết. Họ còn nói hắn tìm cách giết cả ñứa con trai của Potter, bé Harry
ấy. Nhưng… hắn không giết ñược> Hắn không thể giết nổi ñứa bé. Không ai biết tại
sao, thế nào…, nhưng họ nói… khi không thể giết ñược Harry Potter, quyền lực của
Voldemort bị tiêu tan. Chính vì vậy mà hắn cũng phải biến ñi.
Cụ Dumbledore buồn bã gật ñầu. Giáo sư McGonagall ấp úng:
- Chuyện ñó… ñó… là… là… thật sao? Hắn ñã làm bao nhiêu chuyện tai quái, giết chết
bao nhiêu người.. mà…, mà rốt cuộc hắn không thể giết nỗi một thằng bé? Thật là
không tin ñược… cái gì ñã chặn nổi bàn tay hắn như vậy… Nhưng bằng cách nào mà
Harry Potter sống sót?
Cụ Dumbledore nói:
- Chúng ta chỉ có thể ñoán mò mà thôi. Chuyện ấy chẳng bao giờ biết ñược chính xác.
Giáo sư McGonagall rút ra một cái khăn tay chùi nước mắt dưới cặp mắt kính. Cụ
Dumbledore thở dài một tiếng rõ to khi rút chiếc ñồng hồ vàng trong túi ra xem xét. Cái
ñồng hồ ấy cũ lắm. Nó có mười hai kim nhưng không có số. Thay vào những con số là
các hành tinh nho nhỏ di chuyển quanh mép ñồng hồ. Nhưng chắc là cụ Dumbledore coi
giờ ñược bằng cái ñồng hồ ñó, nên khi nhét nó lại vào trong túi, cụ nói:
- Hagrid ñến trễ. Chắc chính lão nói cho bà biết làtôi ñến ñây, ñúng không?
- ðúng.
Giáo sư McGonagall xác nhận và nói tiếp:
- Chắc ông cũng không thèm nói cho tôi biết tại saoông ñến ñây chứ?
- Tôi ñến ñây ñể giao Harry Potter cho dì dượng nó.Bây giờ nó chỉ còn có họ là bà con.
Giáo sư McGonagall nhảy dựng lên, chỉ tay vào ngôi nhà số 4:
- Ông nói gì? Chắc là ông không có ý nói ñến mấy người sống trong ñó chứ?
Dumbledore, ông không thể làm vậy. Tôi ñã quan sát họ suốt cả ngày. Ông không thể
tìm ra ñược người nào khá hơn họ hay sao? Mà họ cũng ñã có một ñứa con trai. Tôi ñã
nhìn thấy thằng nhóc ấy, nó ñá mẹ nó suốt quãng ñường ñến tiệm bánh kẹo, khóc la
vòi vĩnh cho ñược mấy viên kẹo. Harry Potter mà phải ñến sống ở ñây sao?
Cụ Dumbledore khẳng ñịnh:
- ðây là nơi tốt nhất cho ñứa bé. Khi nó lớn lên dìdượng của nó có thể giải thích cho nó
hiểu. Tôi ñã viết cho họ một lá thư.
- Một lá thư?
Giáo sư McGonagall lập lại yếu ớt, thả người ngồi xuống bờ tường, băn khoăn nói tiếp:
- Ông Dumbledore, ông thật sự tin là ông có thể giải thích mọi chuyện trong một lá thư
à? Mấy người ñó sẽ không bao giờ hiểu ñứa bé! Nó sẽnổi tiếng - như một huyền thoại.
Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu sau này người ta gọi ngày hôm nay là ngày Harry Potter:
sẽ có sách viết về Harry. Mọi ñứa trẻ trong thế giới chúng ta rồi sẽ biết ñến tên nó!
- ðúng vậy.
Cụ Dumbledore nhướn mắt dòm qua ñôi kính nữa vành trăng của cụ một cách nghiêm
túc nói rằng:
- Nhiêu ñó cũng ñủ hại ñầu óc bất cứ ñứa trẻ nào. Nổi tiếng trước cả khi biết ñi biết nói!
Nổi tiếng về những ñiều mà nó cũng không thể nhớ ñược! Bà không thấy là tốt cho nó
hơn biết bao nếu nó lớn lên ngoài vòng bao phủ của tiếng tăm, lớn lên một cách bình
thường cho ñến khi nó ñủ lớn ñể làm chủ ñược ñiều ñó sao?
Giáo sư McGonagall lại há hốc miệng thay ñổi ý kiến, nuốt vô, ngậm miệng lại rồi nói:
- Vâng, vâng, dĩ nhiên là ông nói ñúng. Nhưng mà ông Dumbledore ơi, làm sao ñứa bé
ñến ñây ñược?
Bà giáo sư nhìn chòng chọc vào tấm áo trùm của cụ Dumbledore như thể là bà nghĩ cụ
ñang giấu ñứa bé trong ñó. Cụ Dumbledore nói:
- Hagrid ñang mang nó ñến.
- Ông cho là giao lão Hagrid một viêc quan trọng như thế này là khôn ngoan sao?
- Tôi có thể giao cả ñời tôi cho Hagrid.
Bà McGonagall vẫn không bằng lòng:
- Tôi không nói là lão Hagrid không biết phải quấy,nhưng mà ông cũng biết ñấy, lão là
chúa ẩu… Uûa? Cái gì vậy?
Một tiếng ñộng trầm trầm nổi lên quanh họ, nghe rầmrầm, càng lúc càng lớn. Cả hai
nhìn ra ñường xem có ánh ñèn xe không, thế rồi những tiếng ñộng nghe như sấm dội
khiến cả hai người ngước nhìn lên trời: một chiếc xe gắn máy khổng lồ chạy trên không
trung rồi hạ xuống, lăn bánh trên mặt ñường nhựa trước mặt họ.
Nếu cái xe gắn máy bự quá khổ, thì cũng không thấm gì so với người ngồi trên xe. Lão
hầu như cao gấp ñôi người bình thường và bự có ñến gấp năm, nếu tính chiều ngang.
Trông lão ta to lớn ñến nỗi khó tin, và lại hoang dã. Những nùi tóc râu ñen thui hầu như
che kín gương mặt lão, tay lão trông như cần cẩu, còn chân thì ú na ú núc như mính
con cá heo con. Trên ñôi tay vạm vỡ ấy là một nùi chăn tả. Cụ Dumbledore tỏ ra yên
tâm, bảo:
- Hagrid, cuối cùng anh ñã ñến. Anh kiếm ñâu ra cáixe ñó?
Lão khổng lồ cẩn thận trèo xuống xe ñáp:
- Kính thưa ngài giáo sư Dumbledore, tôi mượn của Sirius ðen. Thưa ngài, tôi ñã mang
ñược cậu bé ñến ñây.
- Có lôi thôi rắc rối gì không?
- Thưa ngài không ạ. Ngôi nhà hầu như tan hoang, nhưng tôi ñã kịp ñem nó ra trước
khi dân Muggle bắt ñầu lăng xăng chung quanh. ðang bay tới ñây thì nó lăn ra ngủ.
Cụ Dumbledore và giáo sư McGonagall cúi xuống ñống chăn tã. Bên trong mớ chăn ấy là
ñứa bé ñang ngủ say. Trên vầng trán ñứa bé có một vết thương nhỏ hình tia chớp. Giáo
sư McGonagall thì thầm:
- Có phải ñó là…
- Phải, nó sẽ mang vết thẹo ñó suốt ñời.
- Ông không thể xoá nó ñi sao ông Dumbledore?
- Nếu mà tôi làm ñược thì tôi cũng chẳng ñời nào làm. Thẹo cũng có lúc xài ñến. Tôi
ñây cũng có một cái thẹo ở trên ñầu gối, nó có giá trị như cái bảng ñồ ñường xe ñiện
ngầm ở Luân – ðôn ấy. Thôi, Hagrid, ñặt nó ở ñây, chúng ta nên làm xong chuyện này
cho rồi.
Cụ Dumbledore bồng Harry ñi về phía nhà Dursley. Lão Hagrid ấp úng:
- Tôi… tôi có thể hôn tạm biệt ñứa bé ñược không ạ?
Lão cuối cái ñầu lông lá bờm xờm xuống mặt ñứa bé và dụi mớ râu ria lởm chởm của
lão lên làng da non của ñứa bé. Rồi thình lình lão Hagrid thốt lên một tiếng như tiếng
chó bị thương. Giáo sư McGonagall vội nhắc nhở:
- Xuỵt! Lão ñánh thức ñám Muggle bây giờ.
Lão Hagrid thổn thức:
- Xin lỗi, hic hic. Nhưng tôi không thể… Hic hic. Vợ chồng Potter chết rồi, và Harry bé
bỏng phải ñi ở nhờ dân Muggle. Hic hic.
Giáo sư McGonagall vỗ về:
- Vâng, vâng, buồn lắm, nhưng mà ráng nín khóc ñi, Hagrid, không thôi bọn mình bị lộ
ñấy.
Lão Hagrid cố dằn cảm xúc, ñứng bên giáo sư McGonagall, nhìn theo cụ Dumbledore
bồng Harry Potter ñi qua sân vườn ñến cửa trước nhàDursley, nhẹ nhàng ñặt ñứa bé
xuống bật cửa, lấy trong áo trùm ra một lá thư, nhét lá thư dưới lớp chăn quấn quanh
ñứa bé, rồi trở lại với hai người kia. Cả ba ñứng lặng cả phút nhìn cái bọc chăn tả ñang
ấp ủ ñứa bé. Vai của Hagrid run lên từng chập, mắt của giáo sư McGonagall chớp chớp
liên tục, và cái tia sáng lấp lánh thường loé lên từ ñôi mắt của cụ Dumbledore cũng
dường như tắt ngóm. Cuối cùng cụ Dumbledore nói:
- Thôi, ñành thế. Chúng ta chẳng còn việc gì ở ñây nữa. Có lẽ chúng ta ñi nhập tiệc với
những người khác thôi.
- Dạ. –Tiếng lão Hagrid ñáp rõ to. – Tôi sẽ ñem trảlại Sirius cái xe này. Chào giáo sư
McGonagall, và xin chào ngài, giáo sư Dumbledore.
Chùi nước mắt còn ñang chảy ròng ròng trên mặt, lãoHagrid nhảy lên xe và ñạp một
cái cật lực cho máy nổ, rồi lão rú ga phóng vào không trung ñen như hũ nút.
Cụ Dumbledore cuối ñầu chào bà McGonagall:
- Tôi mong sớm gặp lại bà, giáo sư McGonagall.
Giáo sư McGonagall hỉ mũi một cái ñể ñáp lễ. Cụ Dumbledore xoay người bước xuống
ñường. Tới góc ñường, cụ dừng bước, lấy trong áo trùm ra cái tắc - lửa bằng bạc. Cụ
giơ lên bấm nó một cái, rồi mười hai cái, lập tức mười hai cái bóng ñèn trên ñường
Privet Drive bật sáng, nhưng cũng không kịp soi bóng một con mèo hoang to tướng
chuồn lẹ ñằng sau khúc quanh ở phía ñầu kia con ñường.
Còn lại một mình, cụ Dumbledore nhìn lần cuối cái bọc chăn tả trên bậc cửa ngôi nhà số
4. Cụ ngậm ngùi nói:
- Chúc cháu may mắn, Harry.
Rồi phất tấm áo trùm một cái cụ biến mất.
Một luồn gió thoảng qua những hàng rào cây xanh củangôi nhà trên ñường Privet
Drive. Ngôi nhà ngăn nắp và những hàng rào cắt xén ngay ngắn ấy là nơi cuối cùng mà
người ta có thể mong ñợi một chuyện kỳ lạ xảy ra. Harry Potter trở mình trong cuộn
chăn mà không thức giấc. Một nắm tay nhỏ xíu của béñặt trên lá thư sát bên mình, và
bé ngủ tiếp, không hề biết là vài tiếng ñồng hồ nữabà Dursley sẽ ñánh thức bé dậy
bằng một tiếng hét thảng thốt khi bà mở cửa ñể bỏ những vỏ chai sữa rỗng. ðứa bé
cũng không biết là mình sẽ trở thành món ñồ chơi của thằng anh họ Dudley, bi nó tha
hồ ngắt véo trong vài tuần lễ sau ñó. ðứa bé không hề biết gì về những ñiều ñó trong
lúc này, cái lúc này mà khắp nơi trên cả nước, tiệctùng linh ñình ñang diễn ra, người
người ñều nâng ly chúc tụng: “Uống mừng Harry Potter! ðứa bé vẫn sống!”