Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
1. Vương Thông vội xin hòa và chấp nhận Hội thề Đông Quan (10-12-1427) để rút quân về nước, vì?
A. Quân Minh bị ta đánh bại trong trận Tốt Động - Chúc Động.
B. Hai đạo viện binh của Liễu Thăng và Mộc Thạch bị ta tiêu diệt.
C. Tướng giặc là Trần Hiệp, Lý Lượng, Lý Đằng bị giết.
D. Cả ba phương án A, B, C.
2. Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa chống giặc Minh thời gian nào?
A. 07 – 02 – 1418 B. 17 – 12 – 1416 C. 28 – 6 – 1417 D. 12-7 1418
3. Dựa vào thông tin dưới đây, hãy cho biết tên nhân vật lịch sử này là ai?
A. Ông là một nhà quân sự, chính trị lỗi lạc, là tác giả của bài Đại Cáo Bình Ngô.
B. Ông là người cùng Lê Lợi lãnh đạo nhân dân ta khởi nghĩa chống giặc Minh thắng lợi.
Trả lời: Ông là: Nguyễn Trãi
4. Trong câu nói của vua Lê Thánh Tông dưới đây còn thiếu từ nào trong chỗ trống?
“Nếu người nào dám đem một thước, một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc thì tội phải…………”
A. Giết chết B. Chặt đầu C. Đi tù D. Tru di
D. Quang Bình – Hà Tĩnh
5. Luật pháp thời Lê Sơ khác thời Lý - Trần ở điểm nào?
A. Bảo vệ quyền lợi của vua và quý tộc. B. Khuyến khích sản xuất.
C. Bảo vệ một số quyền lợi của phụ nữ. D. Xác nhận quyền sở hữu tài sản.
6. Chọn các thông tin sau (Lê Sơ, 989, 26, 20) và điền thông tin vào chỗ trống cho thích hợp trong câu sau:
Thời Lê sơ (1) (1428 - 1527) tổ chức được 26 (2) khoa thi. Đỗ 989 (3) tiến sĩ và 20(4) trạng nguyên.
7. Đâu là chính sách nổi bật của nhà Lý- Trần trong xây dựng quân đội?
A. “Ngụ binh ư nông”. B. “Tiên phát chế nhân”.
C. “Vườn không nhà trống”. D. Luân phiên cày cấy.
8. Nhà Tống khi chuẩn bị tiến hành xâm lược Đại Việt với mục tiêu chính là
A. Tạo cơ sở để tiến hành cải cách trong nước
B. Lấy chiến tranh bên ngoài lãnh thổ để ổn định tình hình trong nước
C. Làm bàn đạp để mở rộng xâm lược xuống phía Nam
D. Chinh phạt Đại Việt do không chịu thần phục
9. Nhà nước phong kiến Việt Nam trong các thế kỉ XI – XV được xây dựng theo thể chế
A. quân chủ chuyên chế. B. cộng hòa quý tộc.
C. quân chủ lập hiến. D. dân chủ chủ nô.
10. Nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Minh của nhà Hồ năm 1407 thất bại?
A. Nhà Hồ không có tướng lĩnh tài giỏi.
B. Quân Minh có ưu thế hơn về lực lượng, vũ khí.
C. Nhà Hồ không có đường lối kháng chiến đúng đắn.
D. Nhà Hồ không xây dựng được khối đoàn kết dân tộ
rong áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi - người Anh hùng giải phóng dân tộc đề cập đến nghệ thuật đánh giặc, cứu nước tài tình của nghĩa quân Lam Sơn là: “Lấy yếu chống mạnh, thường đánh bất ngờ/Lấy ít địch nhiều, hay dùng mai phục”1. Trong đó, trận Tốt Động - Chúc Động (07-11-1426) khiến cho quân giặc “… thây phơi đầy nội, thối để ngàn thu” là một điển hình của nghệ thuật đánh mai phục, được nêu trong áng văn.
Trận Tốt Động - Chúc Động diễn ra trong bối cảnh cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã chuyển thành chiến tranh giải phóng và đang ở vào giai đoạn cuối. Theo nhận định của Lê Lợi, lúc này “Thế giặc ngày một suy, quân ta ngày một mạnh, thời cơ đã đến mà không hành động ngay sợ lỡ mất cơ hội”2.
Thực hiện chủ trương trên của Lê Lợi và Nguyễn Trãi, một bộ phận của Nghĩa quân chủ động triển khai lực lượng mai phục đập tan cuộc phản công của địch ngay trên đường hành quân. Khi quân viện binh của địch vừa đến Đông Quan, chúng không nghỉ ngơi, vội mở cuộc phản công ngay nhằm tiêu diệt lực lượng nghĩa quân Lam Sơn đang hoạt động ở gần thành Đông Quan để giành lại thế chủ động chiến lược trên chiến trường. Theo đó, một lực lượng nhỏ ở lại giữ thành, còn gần 10 vạn quân chia làm 3 đạo quân: Đạo quân thứ nhất do Vương Thông chỉ huy, đóng ở bến Cổ Sở trên sông Đáy và con đường từ phía Tây đến Đông Quan; Đạo quân thứ hai do Phương Chính, Lý An chỉ huy, đóng ở cầu Sa Đôi trên sông Nhuệ; Đạo quân thứ ba do Sơn Thọ, Mã Kỳ chỉ huy, đóng ở cầu Thanh Oai trên sông Đỗ Động và con đường bộ từ phía Tây Nam đến Đông Quan. Ba đạo quân của địch đã chiếm giữ những yếu địa thuộc các đầu mối giao thông thủy, bộ phía Tây và Tây Nam Đông Quan. Từ đây, quân Minh hình thành 3 mũi tiến công nhằm vây quét, triệt hạ các căn cứ của Nghĩa quân ở Ninh Kiều (Chương Mỹ, Hà Tây) do hai tướng Phạm Văn Xảo và Lý Triện chỉ huy. Nắm vững âm mưu của địch, hai tướng Phạm Văn Xảo và Lý Triện cho quân tạm rời căn cứ để “tránh mũi nhọn của giặc”; đồng thời, chọn đạo quân thứ ba của địch đóng ở cầu Thanh Oai làm mục tiêu tiến công. Đây là đạo quân yếu nhất trong ba mũi tiến công của địch: cách xa đại bản doanh Cổ Sở, binh lực ít, Sơn Thọ, Mã Kỳ không phải là tướng thiện chiến. Nghĩa quân vừa gấp rút bố trí quân mai phục ở cánh đồng Cổ Lãm (Thanh Oai, Hà Tây), vừa đem quân ra khiêu chiến, nhử địch ra khỏi doanh trại, dẫn dắt chúng vào trận địa mai phục để tiêu diệt. Không chút nghi ngờ, Sơn Thọ, Mã Kỳ dốc toàn bộ binh lực ra truy đuổi và lọt vào giữa trận địa mai phục. Với nghệ thuật chọn địa hình có lợi, bố trí quân mai phục khéo léo, tài tình của tướng Phạm Văn Xảo và Lý Triện, từ các vị trí mai phục, Nghĩa quân xông ra chặn đầu, khóa đuôi và áp sát tiến công vào hai bên sườn quân địch. Bị đánh bất ngờ và ở vào thế bất lợi, quân địch lúng túng, bị động, chống đỡ, chạy tán loạn hòng thoát thân, nhưng hơn 1.000 quân phải bỏ mạng. Sơn Thọ, Mã Kỳ và đám tàn quân mở đường máu, chạy về Đông Quan. Nghĩa quân tiếp tục truy kích đến cầu Nhân Mục, bắt sống 500 tên. Thừa thắng, Nghĩa quân tiến lên đánh thẳng vào Đạo quân thứ hai của địch đóng ở cầu Sa Đôi. Hoảng sợ trước sức mạnh của Nghĩa quân, Phương Chính không dám nghênh chiến, vội rút quân về Cổ Sở.
Như vậy, với nghệ thuật chủ động, linh hoạt bố trí quân mai phục, hai tướng Phạm Văn Xảo và Lý Triện đã chỉ huy một bộ phận Nghĩa quân bẻ gãy hai cánh quân của địch đóng ở cầu Sa Đôi và Thanh Oai. Tiếp đó, đem quân khiêu chiến tại đại bản doanh của Vương Thông ở Cổ Sở để thăm dò lực lượng, ý định tác chiến của chúng, xây dựng cách đánh cho Nghĩa quân nhằm đập tan cuộc phản công, tạo thuận lợi bao vây tiêu diệt gọn thành Đông Quan. Qua trận đánh khiêu chiến, tướng quân Lý Triện nhận thấy, quân của Vương Thông còn rất mạnh, nên chủ động cho Nghĩa quân hủy bỏ doanh trại, rút về Cao Bộ (Chương Mỹ, Hà Tây). Từ Thanh Đàm (Thanh Trì, Hà Nội), đạo quân Lam Sơn do Đinh Lễ, Nguyễn Xí chỉ huy, cũng bí mật về hội quân ở Cao Bộ. Hai đạo quân phối hợp chặt chẽ, chuẩn bị một thế trận lợi hại quyết đập tan cuộc phản công của Vương Thông, giành thắng lợi.
Tin trinh sát và tài liệu khai thác tù binh giặc cho biết, để chuẩn bị tiến đánh Cao Bộ, Vương Thông chia lực lượng làm hai đạo chính binh và kỳ binh. Vương Thông chỉ huy chính binh sẽ qua sông Ninh, Chúc Động (Chúc Sơn) đánh thẳng vào Cao Bộ. Đạo kỳ binh cũng bí mật vượt sông Ninh, đi nhanh qua Tốt Động, Yên Duyệt đánh vào phía sau Cao Bộ. Chúng thống nhất kế hoạch bắn pháo hiệu khi đến vị trí quy định để phối hợp cùng tiến công Cao Bộ từ hai mặt (trước và sau). Phân tích kỹ kế hoạch tác chiến của địch, các tướng lĩnh của Nghĩa quân quyết định “tương kế, tựu kế” để đánh địch. So sánh lực lượng thấy bất lợi cho ta, nhưng quân của nghĩa quân Lam Sơn đều là lực lượng thiện chiến, tinh nhuệ, giỏi đánh mai phục. Để phát huy sở trường của Nghĩa quân, các tướng lĩnh quyết định chọn Tốt Động, Chúc Động – vùng đồng chiêm trũng, lầy lội, có nhiều gò đống cao và lau lách rậm rạp làm nơi giao chiến; chọn hình thức mai phục làm phương pháp tác chiến, nhằm tránh “sức mạnh của quân Minh”, buộc chúng phải đánh theo cách đánh của ta. Dưới sự chỉ huy khôn khéo, tài tình của các tướng quân, chỉ trong thời gian ngắn, các lực lượng của Nghĩa quân bí mật vào các trận địa mai phục đã chọn trước, sẵn sàng chờ đón đánh địch.
Đúng như dự kiến, rạng sáng ngày 07-11-1426, Vương Thông cho đại quân xuất phát. Theo kế hoạch đã vạch ra, hai đạo kỳ binh và chính binh lần lượt vượt cầu Ninh Giang, tiến về Cao Bộ. Đạo kỳ binh theo đường tắt tiến nhanh về phía Cao Bộ, Đạo chính binh theo đường “Thượng đạo” tiến đến phía trước Cao Bộ. Đạo quân này di chuyển ồ ạt, phô trương thanh thế vừa để uy hiếp, vừa để thu hút quân ta về phía trước mặt Cao Bộ, mất cảnh giác, quên đề phòng phía sau. Khi đạo kỳ binh địch đến địa phận Tốt Động thì cũng là lúc đạo chính binh của chúng qua hết cầu Ninh Giang sang bờ Nam sông Ninh. Lúc đó, Nghĩa quân nổ pháo, cả hai đạo quân địch đều tưởng là pháo lệnh của mình, xô nhau tiến gấp để mau chóng thực hiện mệnh lệnh tiến công. Vậy là cả hai cánh quân của địch đã “bí mật” tiến quân một cách dễ dàng vào cánh đồng Tốt Động, Chúc Động. Đối với Nghĩa quân, theo kế hoạch đã thống nhất, khi nghe thấy pháo lệnh thì “vẫn nằm im không được nhúc nhích”3. Địch càng chủ quan cho rằng kế hoạch của chúng hoàn toàn bí mật và sẽ đánh úp được Nghĩa quân. Trong lúc ở cả hai nơi Tốt Động và Chúc Động, trời mưa càng làm cho khu vực giao chiến đã lầy lội lại càng khó đi; người, ngựa đều bị sa lầy trên cánh đồng. Khi cả hai đạo quân của địch đã lọt vào giữa trận địa mai phục, lực lượng ta mai phục ở các vị trí đồng loạt xông ra đánh quyết liệt. Địch hoảng loạn, không kịp trở tay đối phó, giẫm đạp lên nhau tháo chạy. Bị đánh bất ngờ, hơn 5 vạn quân địch chết tại trận, hơn 1 vạn quân bị bắt sống. Thượng thư Trần Hiệp và Nội quan Lý Lượng bị giết tại trận. Một bộ phận quân địch chạy về phía sông Ninh để về Đông Quan bị “chết đuối rất nhiều, nước sông Ninh Kiều do vậy mà tắc nghẽn”4. Theo dân gian truyền tụng: Khúc sông Ninh bị nghẽn, tắc vì xác giặc quá nhiều đến nay vẫn còn vết tích gọi là sông Lấp hay Tắc Giang. Vì bị tắc, dòng sông Ninh (sông Đáy) phải chảy vòng sang bên tả ngạn, tức khúc sông Mai Lĩnh ngày nay. Chủ tướng địch là Vương Thông bị thương, chạy được về Đông Quan.
Chiến thắng oanh liệt ở trận Tốt Động – Chúc Động của Nghĩa quân không những làm khiếp đảm quân xâm lược mà còn làm thay đổi cục diện chiến tranh, đẩy địch vào thế bị vây hãm, không thể thực hiện được bất cứ một cuộc phản công nào. Chỉ sau vài canh giờ chiến đấu, đã có gần 7 vạn quân địch bị chết tại trận, chết đuối và quân ta “bắt sống hơn 1 vạn tên giặc, thu được ngựa, quân tư, khí giới, xe cộ nhiều không kể xiết”5. Cuộc phản công lớn của địch do đích thân Tổng binh Vương Thông chỉ huy đã bị thất bại hoàn toàn. Ngay sau chiến thắng Tốt Động - Chúc Động, Nghĩa quân thừa thắng tiến công các căn cứ bảo vệ vòng ngoài thành Đông Quan, chờ đại quân do Lê Lợi và Nguyễn Trãi chỉ huy đang đứng chân ở Thanh Hóa. Dưới sự chỉ huy tài tình, sắc sảo của Bộ thống soái, quân và dân ta bắt đầu vây hãm thành Đông Quan và đẩy mạnh tiến công địch trên khắp các chiến trường. Khu giải phóng ngày càng được mở rộng, nối liền từ Nam ra Bắc, quân Minh chỉ còn chiếm giữ và cố thủ ở trong một số ít thành lũy.
Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động là một chiến thắng to lớn nhất, rực rỡ nhất, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch nhất và đạt hiệu suất chiến đấu cao nhất trong suốt 9 năm chiến đấu của nghĩa quân Lam Sơn, kể từ khi cuộc kháng chiến bùng nổ đến bấy giờ. Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động đã đẩy quân địch vào hẳn thế phòng ngự bị động. Từ đó, thế và lực của địch ngày càng sa sút, chỉ còn đủ sức cố thủ trong một số thành lũy, chờ quân cứu viện, không còn khả năng thực hiện một cuộc phản công nào. Quân và dân ta nhân đà thắng lợi, tiến công và vây hãm các thành lũy của địch; đồng thời, tranh thủ thời gian tăng cường lực lượng về mọi mặt, củng cố khu vực giải phóng và chuẩn bị điều kiện tiến lên tiêu diệt viện binh địch, giành thắng lợi quyết định, kết thúc chiến tranh. Trận Tốt Động - Chúc Động – điển hình về nghệ thuật đánh mai phục của nghĩa quân Lam Sơn vẫn còn nguyên giá trị cần tiếp tục được nghiên cứu, vận dụng trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Tham khảo:
1)
a)
* Diễn biến:
- Tháng 11-1426, đạo quân của Vương Thông tiến về Cao Bộ.
- Quân ta bố trí mai phục ở Tốt Động và Chúc Động.
- Khi quân Minh lọt vào trận địa, quân ta xông ra từ mọi phía tấn công quân địch.
b)
- Làm thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch.
- Đập tan kế hoạch tấn công của Vương Thông, làm thất bại bước đầu âm mưu của chúng.
- Tạo điều kiện vây hãm Đông Quan, giải phóng nhiều châu huyện.
Tham khảo:
1) a) * Diễn biến:
- Tháng 11-1426, đạo quân của Vương Thông tiến về Cao Bộ.
- Quân ta bố trí mai phục ở Tốt Động và Chúc Động.
- Khi quân Minh lọt vào trận địa, quân ta xông ra từ mọi phía tấn công quân địch.
b)- Làm thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch.
- Đập tan kế hoạch tấn công của Vương Thông, làm thất bại bước đầu âm mưu của chúng.
- Tạo điều kiện vây hãm Đông Quan, giải phóng nhiều châu huyện
3)– Đàng ngoài:
+Sản xuất nông nghiệp bị tàn phá nghiêm trọng.
+ Ruộng đất công bị cường hào đem cầm bán.
+Ruộng đất bỏ hoang, mất mùa đói kém xảy ra dồn dập, nông dân bỏ làng đi nơi khác.
=> Kinh tế nông nghiệp giảm sút, đời sống Nông dân đói khổ.
– Đàng trong:
+Tổ chức di dân khai hoang, cấp nông cụ, lương ăn, lập thành làng ấp.
– Năm1698 đặt phủ Gia Định mở rộng xuống vùng đất Mỹ Tho, Hà Tiên. Lập thôn xóm mới ở đồng bằng Sông Cửu Long.
=>Nông nghiệp phát triển, đời sống nông dân ổn định.
Giống nhau:
- Cả hai trận quân ta đều tổ chức phục binh, phục kích địch (Trận Tốt Động – Chúc Động nghĩa quân phục binh ở Tốt Động – Chúc Động. Trận Chi Lăng – Xương Giang nghĩa quân phục kích ở Chi Lăng, Cần Trạm, Phố Cát).
- Nghĩa quân đã nắm vững đường hành quân của giặc, dựa vào địa hình để tổ chức phục kích, tiêu diệt sinh lực địch.
Khác nhau:
-Lực lượng và vũ khí của quân ta còn hạn chế
-Mưu kế của thủ lĩnh ta rất tài giỏi
#H
Link : Nêu sự giống nhau và khác nhau trong trận Tốt Động-Chúc Động và trận Chi Lăng-Xương Giang - H
Sự giống nhau trong cách đánh của nghĩa quân qua 2 trận Tốt Động - Chúc Động và Chi Lăng - Xương Giang là:
-Địa hình 2 nơi này hiểm trở, thuận lợi cho việc mai phục địch của ta.
-Cách đánh:
+Biết lợi dụng địa hình đặt phục binh, phục kích địch.
+Tập trung tiêu diệt viện binh rồi đưa giặc vào tình thế bị động.
+Đánh vào đòn tâm lý để địch hoảng sợ.
+Buộc địch từ thế mạnh sang thế yếu, quân ta từ thế bị động sang chủ động.
Tham khảo
Giống nhau:
- Cả hai trận quân ta đều tổ chức phục binh, phục kích địch (Trận Tốt Động – Chúc Động nghĩa quân phục binh ở Tốt Động – Chúc Động. Trận Chi Lăng – Xương Giang nghĩa quân phục kích ở Chi Lăng, Cần Trạm, Phố Cát).
- Nghĩa quân đã nắm vững đường hành quân của giặc, dựa vào địa hình để tổ chức phục kích, tiêu diệt sinh lực địch.
Khác nhau:
-Lực lượng và vũ khí của quân ta còn hạn chế
-Mưu kế của thủ lĩnh ta rất tài giỏi
Diễn biến:
- Tháng 10-1426, 5 vạn viện binh giặc do Vương Thông chỉ huy kéo vào thành Đông Quan, nâng số quân Minh ở đây lên 10 vạn.
- Để giành thế chủ động, ngày 7-11-1426, Vương Thông tiến đánh quân chủ lực của nghĩa quân ở Cao Bộ (Chương Mĩ, Hà Nội).
- Nắm được ý đồ và hướng tiến công của giặc, nghĩa quân đã đặt phục kích ở Tốt Động và Chúc Động.
- Khi quân Minh lọt vào trận địa, nghĩa quân đã nhất tề xông thẳng, đánh tan đội hình của chúng.
Âm mưu của Vương Thông trong trận Tốt Động – Chúc Động là :
\(\Rightarrow\) Để chuẩn bị tiến đánh Cao Bộ, Vương Thông chia lực lượng làm hai đạo chính binh và kỳ binh. Vương Thông chỉ huy chính binh sẽ qua sông Ninh, Chúc Động (Chúc Sơn) đánh thẳng vào Cao Bộ. Đạo kỳ binh cũng bí mật vượt sông Ninh, đi nhanh qua Tốt Động, Yên Duyệt đánh vào phía sau Cao Bộ. Chúng thống nhất kế hoạch bắn pháo hiệu khi đến vị trí quy định để phối hợp cùng tiến công Cao Bộ từ hai mặt (trước và sau).
Âm mưu: Giành lại thế chủ động, đánh vào chủ lực của nghĩa quân ở Cao Bộ