(4,0 điểm) Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:
K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

(4,0 điểm) Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

BẾP LỬA – VẺ ĐẸP LẶNG THẦM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT

(1) Đọc xong bài thơ, nhắm mắt lại tưởng tượng bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên. Hình ảnh có tính sóng đôi này được hiện lên thật sống động, rõ ràng, như thể nét khắc, nét chạm vậy. Khi viết bài thơ này, tác giả đang là sinh viên theo học ở nước ngoài. Không gian xa cách. Bên này nỗi nhớ thương là người bà và bên kia là cháu. Nỗi nhớ gọi về kỉ niệm. Trong vô vàn những kỉ niệm không đầu không cuối hiện về, có lẽ kỉ niệm ám ảnh nhất là hình dáng người bà và bếp lửa bà nhóm lên mỗi sớm mỗi chiều. Và cứ thế, như một thôi thúc tự nhiên, kỉ niệm và nỗi nhớ ấy bật lên thành các chữ: "Một bếp lửa…", "Một bếp lửa…", "Cháu thương bà biết mấy nắng mưa".

(2) Mở đầu bài thơ, hình ảnh bếp lửa xuất hiện ngay lập tức và được điệp lại. Và thế là từ đây, hình ảnh bếp lửa với sức ấm và ánh sáng của nó quán xuyến, lan toả toàn bài. Tựa như bếp lửa, nỗi nhớ của cháu đối với bà cũng ấm nóng, da diết, thấm thía trong từng câu chữ.

(3) Đi ra từ nỗi nhớ, tất cả mọi ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu bị cuốn theo dòng hoài niệm. Một thời quá khứ được tái hiện lại trong tâm tưởng với những chi tiết rất mực cụ thể. Tác giả nâng niu từng mảnh kí ức hiện về. Bà, bếp lửa, tuổi thơ của cháu trong những năm nạn đói và trong những năm giặc giã. Bà, bếp kí ức của chính bà. Và cuối cùng sẽ là bà, bếp lửa của thì hiện tại, của hôm nay. Trong mấy dòng thơ mở đầu có một bếp lửa chập chờn mang màu cổ tích…

(4) Khổ thơ thứ hai nhắc đến nạn đói năm bốn nhăm, trước ngày cả nước giành chính quyền, người chết đói thê thảm khắp nơi. Cái mùi khói, khói hun trong khổ thơ có sức gợi rất nhiều, nhắc người đọc nhớ đến cảnh hun khói xua đuổi mùi tử khí được miêu tả trong thiên truyện "Vợ nhặt" nổi tiếng của Kim Lân. Ông viết: "Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt.". Nhà thơ Bằng Việt chỉ với chi tiết rất tiêu biểu này đã gợi ra được một quá khứ tang thương, đầy những thảm cảnh gắn liền với những thân phận trong đó có người bà, người bố. Tình cảm của nhà thơ mang bao nỗi ngậm ngùi, xót xa.

(5) Cũng có thể hình dung hình ảnh bếp lửa trong tâm tưởng nhà thơ tựa như những thước phim đang chạy, làm hiện lên những khung cảnh quá khứ đầy cảm động. Đây là hình ảnh người bà: "Tu hú kêu trên những cánh đồng xa…", "Bà hay kể truyện những ngày ở Huế". Đến đây, hình ảnh người bà và bếp lửa gắn liền với tiếng kêu khắc khoải của loài chim tu hú. Tiếng kêu của loài chim này trong truyền thống văn học của ta thường gợi nhắc đến những nhớ nhung, xa cách, trông ngóng mòn mỏi… Đó là những âm thanh mang một sắc điệu buồn. Có thể bên bếp lửa, bà bỗng nhớ về những vui buồn thời con gái. Hình ảnh tiếng chim tu hú còn được nhắc lại ở cuối khổ tiếp theo. Phải nói rằng, sự có mặt của tiếng chim tu hú trong khổ thơ làm cho không gian kỉ niệm có chiều sâu. Nỗi nhớ của bà về quá khứ của mình, và nỗi nhớ của cháu về bà bỗng trở nên thăm thẳm, vời vợi. Câu thơ "Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa" như treo lên một nỗi khắc khoải khôn nguôi.

(6) Khổ thơ tiếp theo với hình ảnh bà cháu và bếp lửa trong những năm giặc giã. Bố mẹ ở chiến khu. Lời người bà dặn cháu thật nôm na, nhưng chân thực và cảm động: "Bố ở chiến khu bố còn việc bố/ Mày có viết thư chớ kể này kể nọ". Gian khổ, thiếu thốn, nhớ nhung đều phải giấu đi cho người ở xa được yên lòng. Tấm lòng của người bà thương con, thương cháu, ân cần, chu đáo xiết bao.

(7) Nếu từ đây hắt trở lên là hình ảnh bếp lửa, thì những câu thơ cuối của khổ thơ này, đã chuyển đổi cách gọi thành ngọn lửa. Và như vậy, từ bếp lửa trong sự tả thực, cụ thể, đến đây đã trở thành ngọn lửa trong ý nghĩa tượng trưng, khái quát. Bếp lửa với những ấm áp, tâm tình bình lặng của tình cảm gia đình, của tình bà cháu đã thành ngọn lửa của trái tim, của niềm tin và sức sống con người. Nhà thơ đã khái quát vẻ đẹp ngọn lửa là một vẻ đẹp "kì lạ và thiêng liêng". Tình thương và lòng nhân ái bao la của con người mãi ấm nóng, bền bỉ toả sáng, trường tồn. Kết thúc bài thơ, hình ảnh người bà và ngọn lửa được kết lại trong một câu hỏi tu từ: "Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?". Đó là một nỗi nhớ đau đáu, da diết, thường trực. Trong mọi trường hợp, người đàn bà dưới mái ấm gia đình thường gắn liền với những gì thường nhật, thân thiết nhất. Họ giữ cho nhịp sống của tổ ấm được duy trì. Họ là nơi cuối cùng để cho người ta có chỗ trở về sau những thăng trầm, thành bại ở đời. Trong dáng hình bình dị, thầm lặng khiêm nhường quá đỗi ấy, ẩn dấu một trái tim lớn đầy lòng nhân ái, khoan dung. Các dòng thơ như những làn ánh sáng hắt ra từ ngọn lửa ấm nóng, gợi nhắc, thấm thía tâm can người đọc. Nếu ai đã đọc "Đa-ghe-xtan của tôi" của nhà văn Ra-xun Gam-da-tốp, hẳn còn nhớ trong một thiên tuyệt bút với nhan đề "Cha và mẹ, lửa và nước" có nói về người mẹ dân tộc A-va trong cuộc đời chỉ có ba việc diễn ra đều đặn, nhưng bao giờ cũng khoan thai, chậm rãi, cẩn trọng, tựa hồ như những gì cần thiết và quý giá nhất, đó là: đi lấy nước, đưa nôi và nhóm lửa. Toàn bộ ý nghĩa cuộc sống của người đàn bà này chỉ ở trong ba việc thường nhật mà trọng đại đó. Ba công việc ấy vừa cổ sơ, nguyên thuỷ vừa bền bỉ vĩnh hằng. Người đàn bà ấy đã sinh thành, nhen nhóm và duy trì sự sống. Thế thì người bà trong "Bếp lửa" đã nuôi con nuôi cháu, đã đi qua đói khát và giặc giã, đã cho con đi kháng chiến vì nước vì dân, đã âm thầm trụ lại nhà giữ mảnh đất truyền đời tổ tiên để lại, đã âm thầm chờ đợi và hi vọng… đó chẳng phải là biểu tượng về sự sống lớn lao và cao cả của con người đó sao? Bà là người phụ nữ Việt Nam, như ngọn lửa cháy sáng và ấm mãi!...

(Văn Giá, theo Văn học và Tuổi trẻ, tập 44, 1999)

Câu 1. Vấn đề được nghị luận trong văn bản trên là gì?

Câu 2. Chỉ ra một câu văn cho thấy cảm nhận, đánh giá chủ quan của người viết trong đoạn (5).

Câu 3. Trong đoạn (4), tác giả so sánh mùi khói hun trong Bếp lửa với cảnh hun khói trong Vợ nhặt nhằm mục đích gì?

Câu 4. Chỉ ra những luận điểm được sử dụng trong văn bản. Em ấn tượng với luận điểm nào nhất? Vì sao?

Câu 5. Tình bà cháu – một ngọn lửa ấm áp và thiêng liêng – dường như đang đứng trước nguy cơ phai nhạt trong bối cảnh xã hội hiện đại với nhiều biến động. Làm thế nào để chúng ta có thể giữ gìn và phát huy mối liên kết vô giá này? Từ góc nhìn và trải nghiệm của bản thân, em hãy đề xuất những cách thức ý nghĩa để tăng cường sự gắn bó giữa bà và cháu trong cuộc sống hôm nay.

0
27 tháng 11 2017

Hình ảnh bếp lửa xuyên suốt bài thơ. Bếp lửa được nhắc tới 10 lần trong bài:

- Hình ảnh bếp lửa “chập chờn” , “ấp iu” xuất hiện đầu bài gợi lên nỗi nhớ của cháu về bà

    + Hình ảnh bếp lửa có những biến thể: khói, lửa

    + Bếp lửa gắn với kỉ niệm tuổi thơ:cùng bà nhóm lửa, tiếng tu hú kêu,

- Bà không chỉ là người nhóm lên ngọn lửa thực tế, mà đó là ngọn lửa của tình yêu thương, hi vọng, tác giả dựa vào đó để gửi gắm tình cảm, cảm xúc của mình

- Tác giả thốt lên “Ôi kì lạ và thiêng liêng- bếp lửa”, bếp lửa trở thành biểu tượng thiêng liêng, cao đẹp

- Hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà tảo tần, giàu yêu thương

8 tháng 4 2021

Khi nhắc đến bếp lửa là người cháu nhớ đến bà và ngược lạikhi nhớ về bà là nhớ ngay đến hình ảnh bếp lửa. ... Đó  biểu tượng thiêng liêng về cuộc đời người bà thân yêu trong trái tim cháu. Chính bởi những điều đó, bếp lửa và bà trở thành hai hình ảnh thơ độc đáo, có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời.

11 tháng 5 2021

Trong bài thơ “Bếp lửa” của nhà thơ Bằng Việt có hai hình ảnh thơ xuyên suốt bài thơ và luôn đan xen vào nhau. Đó là hình ảnh bếp lửa và hình ảnh người bà. Khi nhắc đến bếp lửa là người cháu nhớ đến bà và ngược lại, khi nhớ về bà là nhớ ngay đến hình ảnh bếp lửa. Trong kí ức tuổi thơ của người cháu nhỏ, bà và bếp lửa là hai hình ảnh không thể tách rời. Nhắc đến bà là nghĩ đến những “lận đận đời bà biết mấy nắng mưa" nhưng bà vẫn tảo tần thay con nuôi dạy cháu. Dù những năm đói nghèo cực nhọc “đói mòn đói mỏi” hay những tháng năm cách mạng bùng lên bà vẫn sớm sớm chiều chiều “bếp lửa bà nhen” để lo cho cháu cái ăn, cái mặc... Bếp lửa ấy mang lại những tia sáng thẩn kì biết mấy: “ấp iu nồng đượm”, “nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi”, “nhóm nồi xôi gạo mới thổi chung vui”, “nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”,... Bếp lửa không còn là bếp lửa hiểu theo nghĩa đen mà đã được chuyển nghĩa đề trở thành biểu tượng của yêu thương, của sẻ chia và che chở. Đó là biểu tượng thiêng liêng về cuộc đời người bà thân yêu trong trái tim cháu. Chính bởi những điều đó, bếp lửa và bà trở thành hai hình ảnh thơ độc đáo, có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời.

Câu 1.a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn:– Xác định đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ) của đoạn văn.– HS có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành.b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Phân tích mối quan hệ giữa luận đề, luận điểm, lí lẽ và bằng chứng trong...
Đọc tiếp

Câu 1.

a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn:

– Xác định đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ) của đoạn văn.

– HS có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành.

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Phân tích mối quan hệ giữa luận đề, luận điểm, lí lẽ và bằng chứng trong văn bản "Bếp lửa" Vẻ đẹp lặng thầm của người phụ nữ Việt.

c. Đề xuất được hệ thống ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận:

– Xác định được các ‎ý phù hợp để làm rõ vấn đề nghị luận, sau đây là một số gợi ‎ý‎:

c1. Chỉ ra các yếu tố luận đề, luận điểm, lí lẽ và bằng chứng trong bài viết:

– Luận đề: Vẻ đẹp lặng thầm của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh người bà và bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt.

– Các luận điểm:

+ Luận điểm 1: Sự sóng đôi của hình tượng bếp lửa và bà.

++ Lí lẽ 1: Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn kí ức của cháu về bà.

++ Lí lẽ 2: Mùi khói gắn liền với sự hi sinh, vất vả của bà trong những năm tháng đói nghèo. (Bằng chứng: Câu văn trong tác phẩm Vợ nhặt)

++ Lí lẽ 3: Hình ảnh bếp lửa và bà gắn với tiếng chim tu hú khắc khoải. (Bằng chứng: Tu hú kêu trên những cánh đồng xa, Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế, Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?)

++ Lí lẽ 4: Hình ảnh bếp lửa và bà trong những năm giặc giã. (Bằng chứng: Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,/ Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ".)

+ Luận điểm 2: Ngọn lửa tượng trưng cho vẻ đẹp lặng thầm của người phụ nữ Việt.

++ Lí lẽ 1: Hình ảnh bếp lửa trong sự tả thực đã chuyển hoá thành ngọn lửa của trái tim, của niềm tin và của sức sống con người. (Bằng chứng: kì lạ và thiêng liêng, Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

++ Lí lẽ 2: Người đàn bà dưới mái ấm gia đình trong mọi trường hợp thường gắn liền với những gì thường nhật, thân thiết nhất. (Bằng chứng: Người mẹ dân tộc A-va trong Cha và mẹ, lửa và nước)

c2. Nhận xét về mối quan hệ giữa các yếu tố kể trên: Các yếu tố kể trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hướng đến việc làm rõ cho luận điểm và tập trung làm sáng tỏ cho luận đề của bài viết. Sự kết hợp giữa các yếu tố kể trên góp phần làm tăng sức thuyết phục cho văn bản.

Câu 2.

a. Bảo đảm yêu cầu về bố cục, dung lượng của bài văn nghị luận:

Bảo đảm yêu cầu về bố cục và dung lượng của bài văn nghị luận (khoảng 400 ± 100 chữ).

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận:

Ý nghĩa của tình cảm gia đình đối với việc hình thành nhân cách con người.

c. Viết được bài văn đảm bảo các yêu cầu:

HS biết triển khai và làm sáng tỏ vấn đề nghị luận. Sau đây là một số gợi ý:

c1. Mở bài: Giới thiệu được vấn đề nghị luận và nêu khái quát quan điểm của cá nhân về vấn đề.

c2. Thân bài:

* Thể hiện quan điểm của người viết, có thể theo một số gợi ý sau:

– Giải thích các khái niệm:

+ Tình cảm gia đình: Là tình yêu thương, sự quan tâm, chăm sóc, trách nhiệm, sẻ chia giữa các thành viên trong gia đình với nhau.

+ Nhân cách: Là những phẩm chất, đặc điểm tâm lí, tính cách, đạo đức của một con người, được hình thành và thể hiện qua thái độ, hành vi trong cuộc sống.

– Ý nghĩa của tình cảm gia đình đối với việc hình thành nhân cách:

+ Là cái nôi nuôi dưỡng phẩm chất con người: Gia đình là trường học đầu tiên, nơi con người học được những bài học đạo đức cơ bản nhất (lòng yêu thương, sự sẻ chia, lòng biết ơn, sự bao dung, trách nhiệm,...). Tình cảm gia đình sẽ nuôi dưỡng tâm hồn, giúp con người có một trái tim nhân ái.

+ Là điểm tựa vững chắc cho mỗi con người trên đường đời: Tình cảm gia đình mang đến sự an toàn, che chở, giúp con người có đủ nghị lực để đối mặt và vượt qua khó khăn, thất bại trong cuộc sống.

+ Là kim chỉ nam có tác dụng định hướng cho con người: Gia đình truyền tải những giá trị văn hoá, truyền thống, giúp con người định hình lẽ sống, mục tiêu, lý tưởng, từ đó có định hướng rõ ràng trong cuộc đời. 

– Thực trạng về tình cảm gia đình hiện nay:

+ Mặt tích cực: Nhiều gia đình vẫn giữ gìn được sự ấm áp, truyền thống tốt đẹp, là điểm tựa cho các thành viên.

+ Mặt tiêu cực: Trong xã hội hiện đại, nhịp sống hối hả, áp lực công việc, sự phát triển của công nghệ và lối sống cá nhân hoá đang khiến khoảng cách giữa các thế hệ gia tăng, tình cảm gia đình đôi khi bị xao nhãng (ví dụ: thiếu giao tiếp, ít thời gian bên nhau).

– Hậu quả khi thiếu vắng tình cảm gia đình: Khi thiếu vắng tình yêu thương, sự quan tâm từ gia đình, con người dễ trở nên ích kỉ, vô cảm, thiếu trách nhiệm, hoặc sa ngã vào những tệ nạn xã hội,...

– Giải pháp để vun đắp tình cảm gia đình trong bối cảnh hiện nay:

+ Mỗi thành viên cần chủ động dành thời gian chất lượng cho nhau (cùng ăn cơm, trò chuyện, tham gia các hoạt động chung).

+ Thế hệ trẻ cần học cách lắng nghe, thấu hiểu và chia sẻ với ông bà, cha mẹ; đồng thời, người lớn cũng cần cởi mở, tôn trọng sự khác biệt của giới trẻ.

+ ...

c3. Kết bài: Khái quát lại vấn đề được nghị luận.

0

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm.

    Một hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong mỗi gia đình. “Ấp iu” gợi đến bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng thương yêu của bà, lại miêu tả rất chính xác với công việc nhóm bếp. Tác giả nhớ về “bếp lửa” đang “chờn vờn” trong sương sớm. Và từ “bếp lửa” lại nhớ đến hình ảnh người bà.

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa

     Cả một hồi ức kỉ niệm lại hiện về trong tâm trí nhà thơ. Suốt một quãng đời vất vả bà cháu bên nhau. Mới lên bốn tuổi đã quen mùi khói. Làng đói kém, bố đi đánh xe thật là vất vả. “Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!". Hồi nhớ lại những năm tháng cháu cùng bà sớm tối có nhau. Lời thơ kể sao mà ngậm ngùi tha thiết quá! Nó gợi trong lòng người bao niềm xúc động sâu xa. Làm sao quên được những năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”. Bà đã dặn cháu:

Bố ở chiến khu, bố còn việc bố

Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!

     Và câu thơ "Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay" là sự kết hợp giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự, bình luận trong bài thơ, tạo bao xúc động cho người đọc. Người già đã từng trải trong chiến tranh thì hồi tưởng những ngày gay go nguy nan, người trẻ thì xốn xang thương cảm với tác giả, xót xa cho đất nước và dân tộc.

      Kỉ niệm về bà và những năm tháng tuổi thơ luôn gắn với hình ảnh bếp lửa: “Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu, Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen”. Bếp lửa là tấm lòng bà ấm áp, như chỗ dựa tinh thần, như sự cưu mang đùm bọc: “Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”.

     Sự xuất hiện của “tiếng chim tu hú”. Tiếng chim quen thuộc của những cánh đồng quê mỗi độ vào hè, tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết lắm, khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong:

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

...

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chí hoài trên những cánh đồng xa?

      Tiếng chim còn gợi ra tình cảnh vắng vẻ và tình yêu thiên nhiên của tác giả. Nhờ sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố biểu cảm với miêu tả, tự sự với bình luận, ta thấy được một kết cấu chặt chẽ của bài thơ, một tình cảm thắm thiết, thiêng liêng của người cháu đối với bà.

12 tháng 11 2019

kham khảo 

Soạn bài Bếp lửa - loigiaihay.com

vào thống kê 

hc tốt 

Bày tỏ cảm xúc của mình về người bà, trong bài thơ “Bếp lửa”, nhà thơ Bằng Việt đã viết:“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa”1. Chép chính xác bảy câu thơ tiếp theo để hoàn thành khổ thơ và cho biết mạch cảm xúc của bài thơ.2. Câu thơ cuối đoạn thơ em vừa chép sử dụng biện pháp nghệ thuật gì? Nêu hiệu quả nghệ thuật của câu thơ đó.3. Trong chương trình Ngữ văn THCS cũng...
Đọc tiếp

Bày tỏ cảm xúc của mình về người bà, trong bài thơ “Bếp lửa”, nhà thơ Bằng Việt đã viết:

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa”

1. Chép chính xác bảy câu thơ tiếp theo để hoàn thành khổ thơ và cho biết mạch cảm xúc của bài thơ.

2. Câu thơ cuối đoạn thơ em vừa chép sử dụng biện pháp nghệ thuật gì? Nêu hiệu quả nghệ thuật của câu thơ đó.

3. Trong chương trình Ngữ văn THCS cũng có một bài thơ miêu tả âm thanh tiếng chim tu hú, đó là bài thơ nào? Tác giả là ai?

4. Bằng một đoạn văn quy nạp (khoảng 12 câu) nêu cảm nhận của em về dòng hồi ức kỉ niệm tuổi thơ của người cháu được thể hiện trong đoạn thơ em vừa chép. Trong đoạn văn có sử dụng câu phủ định và thán từ (gạch chân chỉ rõ).

 

Help me!!!

4

Bày tỏ cảm xúc của mình về người bà, trong bài thơ “Bếp lửa”, nhà thơ Bằng Việt đã viết:

“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa”

1. Chép chính xác bảy câu thơ tiếp theo để hoàn thành khổ thơ và cho biết mạch cảm xúc của bài thơ.

2. Câu thơ cuối đoạn thơ em vừa chép sử dụng biện pháp nghệ thuật gì? Nêu hiệu quả nghệ thuật của câu thơ đó.

3. Trong chương trình Ngữ văn THCS cũng có một bài thơ miêu tả âm thanh tiếng chim tu hú, đó là bài thơ nào? Tác giả là ai?

4. Bằng một đoạn văn quy nạp (khoảng 12 câu) nêu cảm nhận của em về dòng hồi ức kỉ niệm tuổi thơ của người cháu được thể hiện trong đoạn thơ em vừa chép. Trong đoạn văn có sử dụng câu phủ định và thán từ (gạch chân chỉ rõ).

                                                                                          Bài làm

câu 1:

Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Câu 3 :

Bài thơ: Khi con tu hú - tác giả : TỐ HỮU

1 tháng 1 2022

Tham khảo

 

Hồi tưởng về “Bếp lửa” đã thổi luồng hơi ấm làm bớt đi cái lạnh lẽo của mùa đông xa quê. Nỗi nhớ nhà, nhớ cha mẹ, và cả người bà thân thương cứ day dứt hoài khôn nguội. ở nơi đó, hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm, cặm cụi với bếp lửa vẫn mãi hằn in trong tâm trí của Tôi. Dáng bà còng lưng thổi bếp, thổi mãi cho đến khi bếp cháy và tỏa ra làn hơi ấm nồng nàn. Hơi ấm của bếp lửa tràn vào khắp căn bếp nhỏ sưởi ấm cho sự mong chờ và niềm tin vào một ngày mai chiến thắng.

Tôi nghĩ rằng sự đoàn tụ quanh bếp của gia đình người Việt là những ấn tượng của nét riêng biệt và thiêng liêng Bếp lửa và cùng với lửa là nơi những người trong gia đình sum họp ngồi lại quanh bếp để kể những chuyện trên trời dưới biển, chuyện khó khăn hay may mắn… Bên bếp lửa là hình ảnh những người đàn bà với dáng dấp và phong cách của người Việt Nam. Bởi thế đương nhiên bà và bếp lửa cũng trở nên gần gũi, thân thương, trìu mến. Bà thổi lửa cho bếp, thổi vào đó là những tình cảm cũng như sự hi sinh.

Từ trong màn sương của kí ức, tôi lại nhớ về những kỉ niệm với người bà thân thương. Nhưng  ấn tượng nhất với tôi vẫn là năm tôi bốn tuổi. Đó là những năm đói mòn đói mỏi. Nước ta lâm vào nạn đói khủng khiếp, người chết thì chất thành đống, ngả rạ ra đường, người ta phải đốt lên những đống rơm để xua đi tử khí của ma đói khỏi vào nhà. Cha tôi thì phải đi kéo xe, suốt cả ngày khiến cả người gầy nhom, kho rạc để kiếm tiền lo cho gia đình, những lúc ấy, bà vẫn nhóm bếp lo cho gia đình, duy trì sự sống, bữa ăn. Tôi thì vẫn luôn bên bà cùng bà nhóm lửa. cái cảm giác khói bếp là cay mắt vẫn còn. Đến tận bây giờ khi nghĩ lại tôi thực sự vẫn thấy sống mũi cay cay.

Trong suốt quãng đời niên thiếu cũng là khi giặc Pháp quay trở lại xâm lược, tôi vẫn ở cùng bà. Tất cả những người khỏe mạnh đều phải lên đường tham gia chống giặc trong đó cũng có bố mẹ tôi. Vì vậy bà thay bố mẹ thay thầy cô chăm sóc dạy dỗ tôi những điều hay lẽ phải. nhớ nhất là khi tu hú kêu. Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế, mà khốc khoang nó gợi con người ta nhớ quê nhớ cha mẹ. Bà sợ tôi nhớ cha mẹ nên kể cho tôi nghe chuyện hồi nhỉ ở Huế. Mỗi khi thấy bà nhóm bếp, tình thương bà lại dấy lên trong lòng Tôi. Nhưng lúc ấy tôi vẫn còn nhỏ, chưa giúp bà được nhiều. Vì vậy tôi luôn mong ai đó sẽ cùng tôi đỡ đần bà.

Khi thực dân Pháp càn quét làng, chúng đốt nhà cướp bóc của dân. Ngôi nhà của tôi và bà bị nó đốt cháy. “cháy tàn cháy rụi”. Hàng xóm trở về giúp đỡ bà dựng tạm túp lều để ở. Dù tôi còn bé nhưng tôi vẫn hiểu được gia đinhg mình lúc đó là rất khó khăn. Ấy vậy mà, khi tôi viết thơ chẳng hiểu sao bà lại xúi tôi nói dói “cứ bảo nhà vẫn được bình yên” . lúc đầu tôi cũng chẳng biết sao bà lại xúi tôi nói dối, nhưng giờ tôi lớn, tôi mới hiểu rằng đó chính là sự yêu thương, đức hi sinh của bà dành cho con cháu.  Để làm yên lòng người nơi chiến trường bà sẵn sàng hi sinh trước mọi khó khăn.

“Tôi nhớ mãi hình ảnh bà đun bếp lửa phải khó khăn mới thổi lên được, giữ cho lửa thật đều thật đậm là cả một nghệ thuật”. những người phụ nữ Việt Nam luôn là  hiện thân của sự gắn kết cuộc đời mình với bếp lửa, với cái nồng ấm áp của lửa và một niềm tin không thể chuyển lay.

Cho đến ngày hôm qua, trải qua bao nhiêu là thăng trầm của cuộc sống tôi vẫn không sao quên được hình ảnh bà và bếp lửa trong trái tim bà. Bà là bếp lửa. Hai hình tượng ấy có lẽ đã thực sự làm nên dấu ấn trong cuộc đời tới bây giờ khi cuộc sống thay đổi quả nhiên bếp lửa truyền thống không còn vẻ hữu dụng của nó trong cuộc sống thường nhật nữa. nó đã bị thay thế bằng đủ thứ bếp nhanh hơn, tiện dụng và hiện đại hơn. Cảnh xúc xít thiêng liêng quanh bếp lửa gia đình đều dần trở nên hiếm hoi. Ăn uống cũng không  thành vấn đề nặng nề nữa, từ cũng lồng đến cơm hộp rồi cơm nhà hàng , tự nhiên lại chạnh lòng khi bàn tay cần cù của bà chăm sóc nấu nướng thuở xưa.

Nhắc đến bà, vẫn thấy đâu đây cái mùi khói lan tỏa từ bếp lửa của bà, sống mũi tôi dường như vẫn còn cay, bếp lửa thực ra cũng chỉ là bếp lửa thường. Nhưng hồn bếp vẫn đi cùng với tôi, gắn với tôi trong cuộc sống hằng ngày. Phải làm sao cho hết khói tan trong gió, mù trong sương, khói ẩn vào cây, len vào rừng. chính cái cay cực ấy, cái lụi cụi khó chịu ấy. những kỉ niệm thú vị về một thời mà những ai trảu qua đều không thể nào quên được, đã tạo nên những cảm xúc để sau này tôi nhớ mãi câu chuyện rất nhân văn của nhà thơ Nga Voronenko.Trên con thuyền lạnh lẽo, đầy sương mù, người lái thuyền liên tục  động viên lữ khách rằng đống lửa có một ánh lửa, sắp đến nơi rồi. nhưng càng đi, ngọn lửa càng xa, không bao giờ đến được. Đó là một triết lí mang tính nhân đạo. Sự ấm cúng tưởng chừng có thể đến với tôi, nhưng chẳng phải dễ.

1 tháng 1 2022

Tham khảo:

Hình ảnh bếp lửa đã gợi lên trong tâm trí tôi, quá khứ hiện về như một cuộn phim quay chậm.

Tuổi thơ của tôi được sống bên bà, cùng bà nhóm lửa là tuổi thơ với nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn. Lên bốn tuổi tôi đã quen mùi khói. Năm 1945 nạn đói khủng khiếp xảy ra do chính sách cai trị của Thực dân Pháp nên gia đình tôi cũng đói mòn, đói mỏi. Cha tôi đi đánh xe ngựa chở hàng thuê. Xóm làng điêu tàn ngập trong mùi khói, nhĩ lại đến giờ sống mũi còn cay, nước mắt cứ chực ứa ra.

Tuổi thơ của tôi phải sống trong chiến tranh đầy bom đạn dữ dội.

Năm ấy, giặc càn vào làng đốt nhà cháy tàn, cháy lụi. Làng xóm phải giúp bà cháu tôi dững lại túp lều tranh để che mưa nắng. Bố mẹ tôi đi công tác bận không về, bà tôi dặn nếu có viết thư cho bố thì đừng kể này kể nọ, cứ bảo rằng ở nhà mọi việc bình yên để bố mẹ yên tâm công tác. Chao ôi! tôi hiểu lòng bà và càng yêu quý bà hơn.

Tuổi thơ của tôi với bao niềm vui sường, hạnh phúc được ở bên bà.

Suốt tám năm ròng, tôi ở cùng bà, sớm sớm chiều chiều cùng bà nhóm lửa. Bà kể cho chúng tôi nghe những nghày lưu lạc ở Huế. Bà dạy tôi điều hay lẽ phải. Bà là người thầy đầu tiên trong cuộc đời tôi. Tôi lớn lên trong sự chăm sóc, dạy bảo của bà. Mỗi lần nghe tiếng chim tu hú kêu, lòng tôi trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong, muốn được ở gần bà, sợ phải xa bà.

Từ kĩ niệm tuổi thơ ở bên bà, tôi lại nhớ về bà và hình ảnh bếp lửa.

Hình ảnh bà tôi mái tóc bạc phơ, thân hình còm cỏi luôn đi đôi với bếp lửa rực hồng. Hình ảnh bà luôn gắn liền với hình ảnh bếp lửa. Bếp lửa do tay bà nhóm lên toả hơi ấm khắp căn lều nhỏ và suởi ấm lòng tôi, khơi dây ở tôi những tâm tình của thời thơ dại. Bà là người phụ nữ Việt Nam muôm thuở với vẽ đẹp tần tảo, nhẫn nại và đầy yêu thương. Bếp lửa là tình bà nồng ấm, bếp lửa là tay bà chăm chút, bếp lửa gắn với những khó khăn gian klhổ của đời bà. Ngày ngày bà nhóm lên bếp lửa cũng là nhóm lên niềm vui, sự sống, niềm yêu thương chi chút dành cho tôi và mọi người. bà không những là người nhóm lửa, giử lửa, mà còn là người truyền lửa, truyền niềm tin, sự sống cho tôi.

 Giờ đây tôi đã trưởng thành. Tôi có những niềm vui mới, tình cảm mới, bến bờ mới. Tổ quốc đã chấp cánh cho tôi bay vào bầu trời thênh thang của tri thức khoa học,nhưng tôi không thể nào quên hình ảnh bà gắn với hình ảnh bếp lửa mà bà tôi ấp iu nhen lên mỗi sớm, mỗi chiều ở nơi quê nhà.

Tôi ước ao được về ngay bên bà, ôm chặt lấy bà để được tiếp thêm sức mạnh, niềm tin

Những gì là thân thiết nhât của tuổi thơ mỗi người đều có sức toả sáng, nâng đở con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời phải không các bạn? Tình yêu thương, lòng biết ơn trong gia đình chính là cội nguồn của tình yêu quê hương đất nước, con người.

  

- ​Từ láy được sử dụng: chờn vờn.

- Tác dụng: gợi tả hình ảnh ngọn lửa lúc to, lúc nhỏ, lúc cao, lúc thấp; soi tỏ hình ảnh của người và vật xung quanh. Từ láy "chờn vờn" còn có tác dụng dựng nên một hình ảnh gần gũi, quen thuộc từ bao đời nay có trong gia đình Việt nam, nhất ở ở nông thôn.

10 tháng 8 2021

Từ láy: chờn vờn.

Từ láy ấy giúp em hình dung khung cảnh ngọn lửa người bà nhen lúc to lúc nhỏ trong thời điểm sáng sớm khi trời còn sương. Hơn nữa còn giúp gợi hình ảnh quen thuộc gần gũi với thời tuổi thơ của những người sống ở nông thôn từ xưa đến nay.