(4,0 điểm) Đọc đoạn trích sau:

<...">

K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

(4,0 điểm) Đọc đoạn trích sau:

Chuyện Lý tướng quân

"Vua Giản Định nhà Hậu Trần lên ngôi ở Mô Độ(1), hào kiệt bốn phương, gần xa hưởng ứng, đều chiêu tập đồ đảng làm quân Cần Vương. Người huyện Đông Thành(2) là Lý Hữu Chi cũng do chân một người làm ruộng nổi lên, tính vốn dữ tợn nhưng có sức khỏe, giỏi đánh trận, Quốc công Đặng Tất(3) tiến cử cho Lý được làm chức tướng quân, sai cầm một cánh hương binh đi đánh giặc. Quyền vị đã cao, Lý bèn làm những việc trái phép, dựa lũ trộm cướp như lòng ruột, coi người nho sĩ như cừu thù, thích sắc đẹp, ham tiền tài, tham lam không chán, lại tậu ruộng vườn, dựng nhiều nhà cửa, khai đào đồng nội để làm ao, dồn đuổi xóm giềng cho rộng đất, đi kiếm những hoa kỳ đá lạ từ bên huyện khác đem về. Người trong vùng phục dịch nhọc nhằn, anh nghỉ thì em đi, chồng về thì vợ đổi, ai nấy đều vai sưng tay rách, rất là khổ sở, nhưng hắn vẫn điềm nhiên không chút động tâm.

Bấy giờ có một ông thầy tướng số đến cửa xin ăn và có thể nói được những việc họa phúc. Lý bảo xem tướng mình, ông thầy nói:

– Lợi cho việc làm không gì bằng nói thẳng, khỏi được tật bệnh không gì bằng thuốc đắng. Nếu ngài dung nạp thì tôi sẽ nói hết lời. Đừng vì đắng miệng mà ghét quở khiến tôi phải e dè kiêng tránh mới được.

Lý nói:

– Được, không hề gì.

Ông thầy nói:

– Điều thiện ác tích lâu sẽ rõ, sự báo ứng không sai chút nào. Cho nên luận số trước phải luận lý, tướng diện không bằng tướng tâm. Nay Tướng quân có dữ mà không lành, khinh người mà trọng của, mượn oai quyền để làm bạo ngược, buông tham dục để thỏa ngông cuồng, đã trái lòng trời, tất bị trời phạt, còn cách nào mà trốn khỏi tai họa!

Lý cười:

– Ta đã có binh lính, có đồn lũy, tay không lúc nào rời qua mâu, sức có thể đuổi kịp gió chớp, trời dù có giỏi cũng sẽ phải tránh ta không kịp, còn giáng họa cho ta sao được.

Thầy tướng nói:

– Tướng quân cậy mình mạnh giỏi chưa thể lấy lời nói để cho hiểu được, vậy tôi có chùm hạt châu nhỏ, xin đưa tướng quân xem sẽ biết rõ dữ lành, tướng quân có bằng lòng xem không?

Nhân lấy chùm hạt châu ở trong tay áo ra. Lý trông xem, thấy trong đó có lò lửa, vạc sôi, bên cạnh có những người đầu quỷ ghê gớm, hoặc cầm thừng chão, hoặc cầm dao cưa, mình thì đương bị gông xiềng, bò khúm núm ở bên vạc dầu, lấm lét sợ toát mồ hôi. Hỏi có cách gì cứu gỡ không, thì thầy tướng nói:

– Gốc ác đã sâu, mầm vạ sắp nẩy. Cái kế cần kíp ngày nay chỉ còn có đuổi hết hầu thϊếp, phá hết vườn ao, trút bỏ binh quyền, qυყ đầυ phúc địa, tuy tội chưa thể khỏi được, nhưng cũng còn có thể giảm trong muôn một.

Lý ngẫm nghĩ lúc lâu rồi nói:

– Thôi thầy ạ, tôi không thể làm thế được. Có ai lại vì lo cái vạ sau này chưa chắc đã có, mà vứt bỏ những cái công cuộc sắp thành làm hì hục trong mấy năm bao giờ.

Sau đó hắn càng làm những sự dâm cuồng, chém giết, không kiêng dè gì cả. Người mẹ tức giận nói:

– Ưa sống ghét chết, ai ai cũng lòng, đạo trời sáng tỏ, cớ sao mày hay làm những sự giết chóc như vậy. Không ngờ ta đến lúc tuổi già, lại phải trông thấy đứa con mắc hình lục có ngày. […] Năm 40 tuổi thì Lý chết ở nhà.

Trước đây có người bản châu là Nguyễn Quỳ, khảng khái chuộng điều khí tiết, vốn cùng chơi thân với Thúc Khoản(4), nhưng chết đã ba năm nay rồi. Một hôm Thúc Khoản đi chơi sớm, chợt gặp ở đường; Nguyễn Quỳ bảo Thúc Khoản rằng:

– Phụ thân sắp bị đem ra tra hỏi. Tôi vì quen thân với anh, nên đến bảo cho anh biết trước. Anh có muốn xem, tối mai tôi cho người đến đón, anh sẽ được xem. Nhưng xem rồi cần phải giữ kín. Nếu nói hở ra một lời thì tai vạ sẽ lây sang đến tôi ngay.

[Lược một đoạn: Nửa đêm hôm đó, Thúc Khoản được đón xuống dưới Minh Ti, chứng kiến cảnh xét tội của các linh hồn. Thúc Khoản được tận mắt chứng kiến các phán quan tâu bày tội trạng, công lao của những người ấy. Người làm việc ác bị định tội, người hành thiện tích đức thì được làm tiên hoặc được cho chuyển kiếp vào nhà có phúc, hưởng lộc ba đời,… Đến lượt Hữu Chi, vì những tội ác chồng chất mà hắn đã từng gây ra, hắn đã bị trừng trị bằng những hình phạt vô cùng đau khổ: Lấy nước sôi rửa ruột để trị cái tội ghẹo vợ người, lấy truỳ thủ moi ruột để lòng tham không nổi lên nữa, bị đày vào ngục Cửu U lấy dây da chét lấy đầu, lấy dùi lửa đóng vào chân, bị chim cắt mổ vào ngực, bị rắn độc cắn vào bụng, trầm luân kiếp kiếp. Thúc Khoản chứng kiến hết thảy, giật mình tỉnh dậy ở cõi thực. Chàng quyết định đem tán cấp của cải cho mọi người và đốt hết văn tự nợ, vào rừng hái thuốc để tu luyện.]

Lời bình:

Than ôi! đạo trời chí công mà vô tư, lưới trời tuy thưa mà chẳng lọt, cho nên hoặc có người lúc sống khỏi vạ mà lúc chết bị hình. Song, chịu họa ở lúc sống, người đã không hiểu, phải tội ở lúc chết, người lại không hay; vì thế mà đời thường có lắm loạn thần tặc tử. Ví thử họ hiểu, họ hay thì dù bảo làm ác cũng không dám làm. Song Lý Mỗ đã trông thấy và biết rõ rồi lại còn làm tệ hơn. Đó là người hư tồi bậc nhất không chuyển đổi được, không còn thể nói bàn gì nữa."

(Nguyễn Dữ, Truyền kì mạn lục, theo truyenhdt.com)

Chú thích:

(1) Mộ Đô: Yên Mô, nay thuộc tỉnh Ninh Bình.

(2) Đông Thành: Huyện Đông Thành nay thuộc Nghệ An.

(3) Đặng Tất: (Không rõ năm sinh, mất năm 1409) Một võ tướng giỏi và chủ chốt trong cuộc kháng chiến chống quân Minh do Trần Giản Định khởi xướng. Năm 1408, Đặng Tất chỉ huy đánh trận Bô Cô, giết được hai tướng Minh; Mộc Thạnh cũng suýt bị nguy, may chạy thoát. Cũng vì chiến công đó, Giản Định nghe lời gièm pha, không theo kế hoạch của Đặng Tất lại giết oan ông. Con trai Đặng Tất là Đặng Dung đã tức giận bỏ về Nghệ An đi theo Trần Quý Khoáng.

(4) Thúc Khoản: Con trai của Lý Hữu Chi.

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Văn bản trên thuộc thể loại nào?

Câu 2. Xác định ngôi kể được sử dụng trong văn bản.   

Câu 3. Theo em, nhân vật chính trong văn bản trên là ai? Nhân vật ấy được mô tả với những nét tính cách nào?  

Câu 4. Chỉ ra một chi tiết hoang đường, kì ảo trong truyện và nêu tác dụng của chi tiết ấy.

Câu 5. Phát biểu ý nghĩa của văn bản trên và rút ra bài học cho bản thân. (Trình bày ngắn gọn khoảng 5 – 7 dòng)

0
Đề 2:  Phần II. Đọc – hiểu (2,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:              Đam mê là điều cần thiết để thành công. Vì sự nhiệt huyết, niềm say mê trong lúc ta làm điều mình yêu thích, sẽ giúp ta vượt qua khó khăn dễ dàng hơn. Nhưng đừng nghĩ rằng chỉ cần có được đam mê thì sẽ thành công. Vì sao? Là một người lựa chọn sống với đam...
Đọc tiếp

Đề 2:  Phần II. Đọc – hiểu (2,0 điểm)

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

             Đam mê là điều cần thiết để thành công. Vì sự nhiệt huyết, niềm say mê trong lúc ta làm điều mình yêu thích, sẽ giúp ta vượt qua khó khăn dễ dàng hơn. Nhưng đừng nghĩ rằng chỉ cần có được đam mê thì sẽ thành công. Vì sao? Là một người lựa chọn sống với đam mê, tôi nhận ra rằng: nếu có đam mê mà không kiên trì nỗ lực thì làm gì cũng sẽ thất bại. Bất kì công việc nào cũng sẽ có điểm mình thích, điểm mình không thích. Ngay cả khi đang làm công việc mà mình đam mê thì cũng có những ngày cực kì hứng khởi và những quãng thời gian với vô vàn khó khăn. Những thử thách trong bất kì công việc nào cũng đều tồn tại. Điều quan trọng là cam kết với việc mình làm. Cam kết để đẩy mình qua những khoảng thời gian khó khăn. Cam kết để dốc hết sức mình vượt lên trở ngại. Cam kết để ráng thêm chút nữa ngay cả khi đã rã rời.

            Đam mê là cái ban đầu. Nhưng ý chí, nghị lực vượt khó, sự kiên trì của bản thân là những nguyên liệu khác của chiếc bánh thành công. Đam mê cũng không phải tự dưng mà có. Nó là điểm giao thoa giữa sở thích và tiềm năng. Từ hai chất xúc tác đó, người ta tiếp theo xát, mài, giũa, học tập trau dồi, tìm kiếm cơ hội, làm việc, thực hành... Đến một lúc nào đó nó sẽ phát triển thành thiên hướng nghề nghiệp của con người. Nếu có đam mê, nhưng không rèn luyện thì tiềm năng chẳng bao giờ hé nở.             

 (Theo Tuổi trẻ đáng giá bao nhiêu? - Rosie Nguyễn)

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên. (0.25 điểm)

Câu 2.Theo tác giả, những nguyên liệu để tạo nên “chiếc bánh thành công” là gì? (0.25 điểm)

Câu 3. Hãy chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp điệp cấu trúc được sử dụng trong đoạn văn: “Điều quan trọng là cam kết với việc mình làm. Cam kết để đẩy mình qua những khoảng thời gian khó khăn. Cam kết để dốc hết sức mình vượt lên trở ngại. Cam kết để ráng thêm chút nữa ngay cả khi đã rã rời”. (1.0 điểm)

Câu 4. Em hãy cho biết niềm đam mê của mình và kế hoạch biến niềm đam mê đó thành hiện thực. (0.5 điểm)

Phần III. Làm văn (6,0 điểm)

Câu 1 (1.5 điểm)

            Từ nội dung đoạn trích trong phần đọc – hiểu, em hãy viết một đoạn văn nghị luận có độ dài khoảng 12 câu nêu suy nghĩ về ý nghĩa của việc theo đuổi đến cùng niềm đam mê của bản thân trong cuộc sống.        

1
28 tháng 2 2022

Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của văn bản trên là: Nghị luận

Câu2: Theo tác giả, việc hiểu được bản thân là điều khó, cần hiểu bản thân để từ đó làm việc mình thích và có một cuộc đời như mơ ước.

Câu 3: “Mỗi người trong chúng ta là một cá thể khác biệt“, Mỗi cá nhân trong đời sống có một ngoại hình riêng, một cá tính, tính cách độc lập; có những sở trường, sở đoản… khác nhau.

 

Đề 2:  Phần II. Đọc – hiểu (2,0 điểm) Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:              Đam mê là điều cần thiết để thành công. Vì sự nhiệt huyết, niềm say mê trong lúc ta làm điều mình yêu thích, sẽ giúp ta vượt qua khó khăn dễ dàng hơn. Nhưng đừng nghĩ rằng chỉ cần có được đam mê thì sẽ thành công. Vì sao? Là một người lựa chọn sống với đam...
Đọc tiếp

Đề 2:  Phần II. Đọc – hiểu (2,0 điểm)

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

             Đam mê là điều cần thiết để thành công. Vì sự nhiệt huyết, niềm say mê trong lúc ta làm điều mình yêu thích, sẽ giúp ta vượt qua khó khăn dễ dàng hơn. Nhưng đừng nghĩ rằng chỉ cần có được đam mê thì sẽ thành công. Vì sao? Là một người lựa chọn sống với đam mê, tôi nhận ra rằng: nếu có đam mê mà không kiên trì nỗ lực thì làm gì cũng sẽ thất bại. Bất kì công việc nào cũng sẽ có điểm mình thích, điểm mình không thích. Ngay cả khi đang làm công việc mà mình đam mê thì cũng có những ngày cực kì hứng khởi và những quãng thời gian với vô vàn khó khăn. Những thử thách trong bất kì công việc nào cũng đều tồn tại. Điều quan trọng là cam kết với việc mình làm. Cam kết để đẩy mình qua những khoảng thời gian khó khăn. Cam kết để dốc hết sức mình vượt lên trở ngại. Cam kết để ráng thêm chút nữa ngay cả khi đã rã rời.

            Đam mê là cái ban đầu. Nhưng ý chí, nghị lực vượt khó, sự kiên trì của bản thân là những nguyên liệu khác của chiếc bánh thành công. Đam mê cũng không phải tự dưng mà có. Nó là điểm giao thoa giữa sở thích và tiềm năng. Từ hai chất xúc tác đó, người ta tiếp theo xát, mài, giũa, học tập trau dồi, tìm kiếm cơ hội, làm việc, thực hành... Đến một lúc nào đó nó sẽ phát triển thành thiên hướng nghề nghiệp của con người. Nếu có đam mê, nhưng không rèn luyện thì tiềm năng chẳng bao giờ hé nở.             

 (Theo Tuổi trẻ đáng giá bao nhiêu? - Rosie Nguyễn)

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên. (0.25 điểm)

Câu 2.Theo tác giả, những nguyên liệu để tạo nên “chiếc bánh thành công” là gì? (0.25 điểm)

Câu 3. Hãy chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp điệp cấu trúc được sử dụng trong đoạn văn: “Điều quan trọng là cam kết với việc mình làm. Cam kết để đẩy mình qua những khoảng thời gian khó khăn. Cam kết để dốc hết sức mình vượt lên trở ngại. Cam kết để ráng thêm chút nữa ngay cả khi đã rã rời”. (1.0 điểm)

Câu 4. Em hãy cho biết niềm đam mê của mình và kế hoạch biến niềm đam mê đó thành hiện thực. (0.5 điểm)

Phần III. Làm văn (6,0 điểm)

Câu 1 (1.5 điểm)

            Từ nội dung đoạn trích trong phần đọc – hiểu, em hãy viết một đoạn văn nghị luận có độ dài khoảng 12 câu nêu suy nghĩ về ý nghĩa của việc theo đuổi đến cùng niềm đam mê của bản thân trong cuộc sống.        

0
Trong  đoạn trích“Hoàng Lê nhất thống chí”- Hồi 14, các tác giả Ngô gia văn phái có viết:Vua Quang Trung lại nói:      - Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước  lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh...
Đọc tiếp

Trong  đoạn trích“Hoàng Lê nhất thống chí”- Hồi 14, các tác giả Ngô gia văn phái có viết:

Vua Quang Trung lại nói:

      - Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước  lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vây. Đến lúc ấy chỉ có người  khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao, không phải Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được.Chờ mười năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng?

                                                (Trích Ngữ văn lớp 9, tập 1, trang 67 NXB Giáo dục)

            1. Những lời nói trên vua Quang Trung nói với ai, nói trong hoàn cảnh nào? Qua lời nói đó, em thấy vua Quang Trung là người như thế nào?

2. Xét theo mục đích nói, câu văn in đậm thuộc kiểu câu gì? Chỉ ra hành động nói trong câu văn.

            3. Dựa vào đoạn trích “Hoàng Lê nhất thống chí” – Hồi 14, hãy viết đoạn văn khoảng  12 câu lập luận theo kểu Tổng – phân – hợp để làm rõ trí tuệ nhạy bén, sáng suốt và tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung. Trong đoạn văn sử dụng một lời dẫn trực tiếp, một câu ghép (Gạch chân và chú thích rõ).

0
(4,0 điểm) Đọc đoạn trích sau:(Tóm tắt tác phẩm: Tống Trân là con gia đình giàu có những lên ba tuổi thì cha mất, lên tám tuổi thì phải dắt mẹ đi ăn mày. Hôm ấy, Tống Trân dắt mẹ tới nhà cả một trưởng giả, con gái của trưởng giả thương tình mang gạo ra cho thì bị cha bắt gặp, bèn bắt Cúc Hoa lấy chàng trai nghèo là Tống Trân làm chồng và đuổi ra khỏi nhà. Dù vậy, Cúc Hoa vẫn giữ...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc đoạn trích sau:

(Tóm tắt tác phẩm: Tống Trân là con gia đình giàu có những lên ba tuổi thì cha mất, lên tám tuổi thì phải dắt mẹ đi ăn mày. Hôm ấy, Tống Trân dắt mẹ tới nhà cả một trưởng giả, con gái của trưởng giả thương tình mang gạo ra cho thì bị cha bắt gặp, bèn bắt Cúc Hoa lấy chàng trai nghèo là Tống Trân làm chồng và đuổi ra khỏi nhà. Dù vậy, Cúc Hoa vẫn giữ trọn đạo làm vợ và làm dâu, chăm lo cho chồng ăn học. Học được nửa năm, Tống Trân thi đậu Trạng nguyên, được vua ban áp mão và gả công chúa cho chàng. Tống Trân lấy cớ nhà nghèo mà từ chối. Tống Trân phải trải qua nhiều thử thách hiểm nguy trong thời gian đi sứ nước Tần. Ở quê nhà, Cúc Hoa rơi vào mưu kế của trưởng giả, gả nàng đi cho một người khác. Cùng lúc ấy, Tống Trân trên đường về, biết rõ nguồn cơn và xuất hiện trong ngày rước dâu. Chàng xét xử phân minh rồi đoàn tụ với mẹ và vợ.)

TỐNG TRÂN – CÚC HOA

Mẹ chồng thấy dâu thảo hiền

Đôi hàng nước mắt chảy liền như tuôn.

Khó nghèo có mẹ có con,

Ít nhiều gạn sẻ(1) vẹn tròn cho nhau

Lòng con nhường nhịn bấy lâu

Mẹ ăn cơm ấy ngon đâu hỡi nàng

Cúc Hoa nước mắt hai hàng:

"Lạy mẹ cùng chàng chớ quản(2) tôi

Gọi là cơm tấm canh lê(3)

Mẹ ăn đỡ dạ kẻo khi võ vàng(4)

Chàng ăn cho sống mình chàng,

Dốc lòng kinh sử văn chương đạo là.

Kể chi phận thiếp đàn bà,

Khó nghèo chớ quản nỗi nhà thảm thương".

Thương con mẹ giấu cho vàng,

Bảo rằng gìn giữ để nương tựa mình.

Cúc Hoa trong dạ đinh ninh:

"Lạy mẹ còn có chút tình thương con".

Tức thì trở lại phòng môn,

Cầm tay đánh thức nỉ non bảo chồng:

"Chàng ơi xin tỉnh giấc nồng,

Nay vàng mẹ thiếp cho dùng một chương".

Kể đoạn Cúc Hoa bán vàng,

Bán cho trưởng giả giàu sang hơn người.

Hai bên giá cả hẳn hoi,

Bắc cân định giá được ngoài tám mươi.

Cúc Hoa trở lại thư trai(5)

"Khuyên chàng kinh sử dùi mài cho hay.

Thiếp xin rước một ông thầy,

Để chàng học tập đêm ngày thiếp nuôi".

Một ngày ba bữa chẳng rời,

Nuôi thầy, nuôi mẹ lại nuôi cả chồng.

Nàng thời nhiều ít cũng xong

Đói no chẳng quản miễn chồng làm nên.

Khấn trời lạy Phật đòi phen:

"Chứng minh phù hộ ước nguyền chồng tôi.

Khuyên chàng khuya sớm hôm mai,

Cố chăm việc học đua tài cho hay.

Một mai, có gặp rồng mây(6)

Bảng vàng(7) may dược tỏ bày họ tên

Trước là sạch nợ bút nghiên

Sau là thiếp cũng được yên lòng này".

(Theo bản in của NXB Phổ thông Hà Nội năm 1961,
Bùi Thức Phước sưu tầm và biên soạn, NXB Hội nhà văn, 2012)

Chú thích:

(1) Gạn sẻ: Gạn – chắt lọc và sẻ – chia sớt, chia nhỏ.

(2) Quản: E ngại, ngần ngại. Chớ quản: Không cần ngần ngại, quan tâm.

(3) Canh lê: Canh nấu bằng rau lê, những gia đình nghèo khó thường ăn loại rau này.

(4) Võ vàng: Gầy gò, da dẻ xanh xao, không được hồng hào vì thiếu máu.

(5) Thư trai: Phòng đọc sách, phòng học.

(6) Rồng mây: Hội rồng mây, cơ hội để mọi người thi đậu làm nên danh phận cao sang như rồng gặp mây.

(7) Bảng vàng: Danh sách ghi tên những người thi đỗ.

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Văn bản trên thuộc thể loại gì?

Câu 2. Có những nhân vật nào xuất hiện trong văn bản?

Câu 3. Trong đoạn trích trên, hoàn cảnh sống của Tống Trân và Cúc Hoa hiện lên như thế nào? Hoàn cảnh sống ấy có vai trò gì trong việc thể hiện số phận nhân vật?

Câu 4. Thông qua mối quan hệ với mẹ chồng, Cúc Hoa có phẩm chất nào đáng quý? Những chi tiết nào giúp em nhận thấy điều đó?

Câu 5. Ước mơ "bảng vàng rồng mây" trong lời khấn nguyện của Cúc Hoa thể hiện mong muốn, khát vọng gì của nhân dân? (Trình bày ngắn gọn khoảng 5 – 7 dòng)

5
16 tháng 9

Câu 1. Văn bản trên thuộc thể loại truyện thơ Nôm.

16 tháng 9

Câu 2. Nhân vật xuất hiện: Cúc Hoa, Tống Trân, mẹ chồng Cúc Hoa.

Lần đầu tiên trong lich sử Việt Nam và có lẽ cả thế giới, có một vị Chủ tịch nước lấy chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh chiếc ao làm “cung điện” của mình. Quả như một câu chuyện thần thoại, như câu chuyện về một vị tiên, một con người siêu phàm nào đó trong cổ tích. Chiếc nhà sàn đó cũng chỉ vẻn vẹn có vài phòng tiếp khách, họp Bộ Chính trị, làm việc và ngủ, với...
Đọc tiếp

Lần đầu tiên trong lich sử Việt Nam và có lẽ cả thế giới, có một vị Chủ tịch nước lấy chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh chiếc ao làm “cung điện” của mình. Quả như một câu chuyện thần thoại, như câu chuyện về một vị tiên, một con người siêu phàm nào đó trong cổ tích. Chiếc nhà sàn đó cũng chỉ vẻn vẹn có vài phòng tiếp khách, họp Bộ Chính trị, làm việc và ngủ, với những đồ đạc rất mộc mạc đơn sơ. Và chủ nhân chiếc nhà sàn này cũng trang phục hết sức giản dị, với bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp thô sơ như của các chiến sĩ Trường Sơn đã được một tác giả phương Tây ca ngợi như một thần kì. Hằng ngày, việc ăn uống của Người cũng rất đạm bạc, với những món ăn dân tộc không một chút cầu kì, như cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa.

Đọc đoạn văn trên và thực hiện các yêu cầu sau:

Nêu nội dung chính của đoạn văn?

Đoạn văn trên trích từ văn bản nào? Của tác giả?

Từ văn bản, viết đoạn văn rút ra những bài học cho bản thân

0
(4,0 điểm) Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:BẾP LỬA – VẺ ĐẸP LẶNG THẦM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT (1) Đọc xong bài thơ, nhắm mắt lại tưởng tượng bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên. Hình ảnh có tính sóng đôi này được hiện lên thật sống động, rõ ràng, như thể nét khắc, nét chạm vậy. Khi viết...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

BẾP LỬA – VẺ ĐẸP LẶNG THẦM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT

(1) Đọc xong bài thơ, nhắm mắt lại tưởng tượng bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên. Hình ảnh có tính sóng đôi này được hiện lên thật sống động, rõ ràng, như thể nét khắc, nét chạm vậy. Khi viết bài thơ này, tác giả đang là sinh viên theo học ở nước ngoài. Không gian xa cách. Bên này nỗi nhớ thương là người bà và bên kia là cháu. Nỗi nhớ gọi về kỉ niệm. Trong vô vàn những kỉ niệm không đầu không cuối hiện về, có lẽ kỉ niệm ám ảnh nhất là hình dáng người bà và bếp lửa bà nhóm lên mỗi sớm mỗi chiều. Và cứ thế, như một thôi thúc tự nhiên, kỉ niệm và nỗi nhớ ấy bật lên thành các chữ: "Một bếp lửa…", "Một bếp lửa…", "Cháu thương bà biết mấy nắng mưa".

(2) Mở đầu bài thơ, hình ảnh bếp lửa xuất hiện ngay lập tức và được điệp lại. Và thế là từ đây, hình ảnh bếp lửa với sức ấm và ánh sáng của nó quán xuyến, lan toả toàn bài. Tựa như bếp lửa, nỗi nhớ của cháu đối với bà cũng ấm nóng, da diết, thấm thía trong từng câu chữ.

(3) Đi ra từ nỗi nhớ, tất cả mọi ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu bị cuốn theo dòng hoài niệm. Một thời quá khứ được tái hiện lại trong tâm tưởng với những chi tiết rất mực cụ thể. Tác giả nâng niu từng mảnh kí ức hiện về. Bà, bếp lửa, tuổi thơ của cháu trong những năm nạn đói và trong những năm giặc giã. Bà, bếp kí ức của chính bà. Và cuối cùng sẽ là bà, bếp lửa của thì hiện tại, của hôm nay. Trong mấy dòng thơ mở đầu có một bếp lửa chập chờn mang màu cổ tích…

(4) Khổ thơ thứ hai nhắc đến nạn đói năm bốn nhăm, trước ngày cả nước giành chính quyền, người chết đói thê thảm khắp nơi. Cái mùi khói, khói hun trong khổ thơ có sức gợi rất nhiều, nhắc người đọc nhớ đến cảnh hun khói xua đuổi mùi tử khí được miêu tả trong thiên truyện "Vợ nhặt" nổi tiếng của Kim Lân. Ông viết: "Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt.". Nhà thơ Bằng Việt chỉ với chi tiết rất tiêu biểu này đã gợi ra được một quá khứ tang thương, đầy những thảm cảnh gắn liền với những thân phận trong đó có người bà, người bố. Tình cảm của nhà thơ mang bao nỗi ngậm ngùi, xót xa.

(5) Cũng có thể hình dung hình ảnh bếp lửa trong tâm tưởng nhà thơ tựa như những thước phim đang chạy, làm hiện lên những khung cảnh quá khứ đầy cảm động. Đây là hình ảnh người bà: "Tu hú kêu trên những cánh đồng xa…", "Bà hay kể truyện những ngày ở Huế". Đến đây, hình ảnh người bà và bếp lửa gắn liền với tiếng kêu khắc khoải của loài chim tu hú. Tiếng kêu của loài chim này trong truyền thống văn học của ta thường gợi nhắc đến những nhớ nhung, xa cách, trông ngóng mòn mỏi… Đó là những âm thanh mang một sắc điệu buồn. Có thể bên bếp lửa, bà bỗng nhớ về những vui buồn thời con gái. Hình ảnh tiếng chim tu hú còn được nhắc lại ở cuối khổ tiếp theo. Phải nói rằng, sự có mặt của tiếng chim tu hú trong khổ thơ làm cho không gian kỉ niệm có chiều sâu. Nỗi nhớ của bà về quá khứ của mình, và nỗi nhớ của cháu về bà bỗng trở nên thăm thẳm, vời vợi. Câu thơ "Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa" như treo lên một nỗi khắc khoải khôn nguôi.

(6) Khổ thơ tiếp theo với hình ảnh bà cháu và bếp lửa trong những năm giặc giã. Bố mẹ ở chiến khu. Lời người bà dặn cháu thật nôm na, nhưng chân thực và cảm động: "Bố ở chiến khu bố còn việc bố/ Mày có viết thư chớ kể này kể nọ". Gian khổ, thiếu thốn, nhớ nhung đều phải giấu đi cho người ở xa được yên lòng. Tấm lòng của người bà thương con, thương cháu, ân cần, chu đáo xiết bao.

(7) Nếu từ đây hắt trở lên là hình ảnh bếp lửa, thì những câu thơ cuối của khổ thơ này, đã chuyển đổi cách gọi thành ngọn lửa. Và như vậy, từ bếp lửa trong sự tả thực, cụ thể, đến đây đã trở thành ngọn lửa trong ý nghĩa tượng trưng, khái quát. Bếp lửa với những ấm áp, tâm tình bình lặng của tình cảm gia đình, của tình bà cháu đã thành ngọn lửa của trái tim, của niềm tin và sức sống con người. Nhà thơ đã khái quát vẻ đẹp ngọn lửa là một vẻ đẹp "kì lạ và thiêng liêng". Tình thương và lòng nhân ái bao la của con người mãi ấm nóng, bền bỉ toả sáng, trường tồn. Kết thúc bài thơ, hình ảnh người bà và ngọn lửa được kết lại trong một câu hỏi tu từ: "Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?". Đó là một nỗi nhớ đau đáu, da diết, thường trực. Trong mọi trường hợp, người đàn bà dưới mái ấm gia đình thường gắn liền với những gì thường nhật, thân thiết nhất. Họ giữ cho nhịp sống của tổ ấm được duy trì. Họ là nơi cuối cùng để cho người ta có chỗ trở về sau những thăng trầm, thành bại ở đời. Trong dáng hình bình dị, thầm lặng khiêm nhường quá đỗi ấy, ẩn dấu một trái tim lớn đầy lòng nhân ái, khoan dung. Các dòng thơ như những làn ánh sáng hắt ra từ ngọn lửa ấm nóng, gợi nhắc, thấm thía tâm can người đọc. Nếu ai đã đọc "Đa-ghe-xtan của tôi" của nhà văn Ra-xun Gam-da-tốp, hẳn còn nhớ trong một thiên tuyệt bút với nhan đề "Cha và mẹ, lửa và nước" có nói về người mẹ dân tộc A-va trong cuộc đời chỉ có ba việc diễn ra đều đặn, nhưng bao giờ cũng khoan thai, chậm rãi, cẩn trọng, tựa hồ như những gì cần thiết và quý giá nhất, đó là: đi lấy nước, đưa nôi và nhóm lửa. Toàn bộ ý nghĩa cuộc sống của người đàn bà này chỉ ở trong ba việc thường nhật mà trọng đại đó. Ba công việc ấy vừa cổ sơ, nguyên thuỷ vừa bền bỉ vĩnh hằng. Người đàn bà ấy đã sinh thành, nhen nhóm và duy trì sự sống. Thế thì người bà trong "Bếp lửa" đã nuôi con nuôi cháu, đã đi qua đói khát và giặc giã, đã cho con đi kháng chiến vì nước vì dân, đã âm thầm trụ lại nhà giữ mảnh đất truyền đời tổ tiên để lại, đã âm thầm chờ đợi và hi vọng… đó chẳng phải là biểu tượng về sự sống lớn lao và cao cả của con người đó sao? Bà là người phụ nữ Việt Nam, như ngọn lửa cháy sáng và ấm mãi!...

(Văn Giá, theo Văn học và Tuổi trẻ, tập 44, 1999)

Câu 1. Vấn đề được nghị luận trong văn bản trên là gì?

Câu 2. Chỉ ra một câu văn cho thấy cảm nhận, đánh giá chủ quan của người viết trong đoạn (5).

Câu 3. Trong đoạn (4), tác giả so sánh mùi khói hun trong Bếp lửa với cảnh hun khói trong Vợ nhặt nhằm mục đích gì?

Câu 4. Chỉ ra những luận điểm được sử dụng trong văn bản. Em ấn tượng với luận điểm nào nhất? Vì sao?

Câu 5. Tình bà cháu – một ngọn lửa ấm áp và thiêng liêng – dường như đang đứng trước nguy cơ phai nhạt trong bối cảnh xã hội hiện đại với nhiều biến động. Làm thế nào để chúng ta có thể giữ gìn và phát huy mối liên kết vô giá này? Từ góc nhìn và trải nghiệm của bản thân, em hãy đề xuất những cách thức ý nghĩa để tăng cường sự gắn bó giữa bà và cháu trong cuộc sống hôm nay.

0
Đọc đoạn  trích và trả lời câu hỏiLần này ta ra thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn . Chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười lần nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù . Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vậy. Đến lúc...
Đọc tiếp

Đọc đoạn  trích và trả lời câu hỏi

Lần này ta ra thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn . Chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười lần nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù . Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vậy. Đến lúc ấy chỉ có khéo  lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đạo, không phải Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được . Chờ mười năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dượng lực lưỡng, bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng?

Câu a. Đoạn trích trên là lời của ai nói với ai? Nói trong hoàn cảnh nào? Nói về vấn đề gì?

Câu b. Vua Quang Trung đã đánh giá cao Ngô Thì Nhậm những ưu điểm gì ?

Câu c. Câu nghi vấn nằm ở cuối đoạn trích nhằm mục đích gì?

Câu d. Qua lời nói trên, em hiểu vua Quang Trung là người như thế nào? Trình bày ý kiến của em bằng một đoạn văn 10 câu. Trong đoạn có sử dụng câu cảm thán.

 

0
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH   Bài 2.Trong bài Phong cách Hồ Chí Minh, sau khi nhắc lại việc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với văn hóa nhiều nước, nhiều vùng trên thế giới, tác giả Lê Anh Trà viết:…”Nhưng điều kì lạ là tất cả những ảnh hưởng quốc tế đó đã nhào nặn với cái gốc văn hóa dân tộc không gì lay chuyển được ở Người, để trở thành một nhân cách rất Việt Nam, một...
Đọc tiếp

PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH

 

Bài 2.Trong bài Phong cách Hồ Chí Minh, sau khi nhắc lại việc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với văn hóa nhiều nước, nhiều vùng trên thế giới, tác giả Lê Anh Trà viết:…”Nhưng điều kì lạ là tất cả những ảnh hưởng quốc tế đó đã nhào nặn với cái gốc văn hóa dân tộc không gì lay chuyển được ở Người, để trở thành một nhân cách rất Việt Nam, một lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất phương Đông, nhưng cũng đồng thời rất mới, rất hiện đại”…(Trích Ngữ Văn 9, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015)

1. Ở phần trích trên, tác giả đã cho thấy vẻ đẹp của phong cách Hồ Chí Minh được kết hợp hài hòa bởi những yếu tố nào? Em hiểu được điều gì về tình cảm của tác giả dành cho Người?

2. Xác định hai danh từ được sử dụng như tính từ trong phần trích dẫn và cho biết hiệu quả nghệ thuật của cách dùng từ ấy.

3. Em hãy trình bày suy nghĩ (khoảng 2/3 trang giấy thi) về trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kì hội nhập và phát triển.

4.Viết đoạn văn 10 câu nói về phong cách sống của người trẻ hiện nay mà em cho là ”rất Việt Nam, rất phương Đông, nhưng cũng đồng thời rất mới, rất hiện đại. ”

 

Bài 3.Có thể nói ít có vị lãnh tụ nào lại am hiểu nhiều về các dân tộc và nhân dân thế giới, văn hoá thế giới sâu sắc như Chủ tịch Hồ Chí Minh.  (Phong cách Hồ Chí Minh – Lê Anh Trà)

Viết bài văn ngắn khoảng 1 trang giấy thi trình bày suy nghĩ về nhận định trên.

 

Bài 4.Cho đoạn văn sau : “ Nếp sống giản dị và thanh đạm của Bác Hồ, cũng như các vị danh nho xưa, hoàn toàn không phải là một cách tự thần thánh hoá, tự làm cho khác đời, hơn đời, mà đây là lối sống thanh cao, một cách di dưỡng tinh thần, một quan niệm thẩm mĩ về cuộc sống, có khả năng đem lại hạnh phúc thanh cao cho tâm hồn và thể xác.”(Sách giáo khoa Ngữ văn 9 - Tập một.)

a. Câu văn trên được trích trong văn bản nào, của ai ?

b. Hãy giải nghĩa: “di dưỡng tinh thần”

c.Vận dụng kiến thức về xưng hô trong hội thoại để lý giải vì sao nhân dân ta gọi Người là “Bác”.

d.Công việc học tập rất căng thẳng, người học sinh cần phải “di dưỡng tinh thần” ra sao? (Trình bày câu trả lời bằng đoạn văn nghị luận có độ dài 2/3 trang giấy thi)

 

Bài 5.Cho đoạn văn:“Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và có lẽ cả thế giới, có một vị Chủ tịch nước lấy chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh chiếc ao làm “cung điện” của mình(2). Quả như một câu chuyện thần thoại, như câu chuyện về một vị tiên, một con người siêu phàm nào đó trong cổ tích(2). Chiếc nhà sàn đó cũng chỉ vẻn vẹn có vài phòng tiếp khách, họp Bộ chính trị, làm việc và ngủ, với những đồ đạc rất mộc mạc đơn sơ”(3).

a. Đoạn văn trên trích từ văn bản nào? Của ai?

b. Giải nghĩa từ “siêu phàm”?

c. Dùng phương châm hội thoại đã học để giải thích vì sao tác giả dùng cách diễn đạt: “có lẽ” trong câu (1)

d.Phân tích phép tu từ được dùng trong câu “Quả như một câu chuyện thần thoại, như câu chuyện về một vị tiên, một con người siêu phàm nào đó trong cổ tích”

e. Viết một bài văn ngắn  (độ dài tối đa 1 trang giấy thi) trình bày suy nghĩ của em về những điều em học tập được từ phong cách Hồ Chí Minh.

 

Bài 6. …Và chủ nhân của chiếc nhà sàn này cũng trang phục hết sức giản dị, với bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp thô sơ như của các chiến sĩ Trường Sơn đã được một tác giả phương Tây ca ngợi như một vật thần kì. Hằng ngày, việc ăn uống của Người cũng rất đạm bạc, với những món ăn dân tộc không chút cầu kì, như cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa.

(Theo SGK Ngữ Văn 9, tập 1, trang 6)

1) Đoạn trích trên thuộc văn bản nào? Do ai sáng tác?

2) Đoạn văn trên đã nêu lên vẻ đẹp gì trong phong cách của Bác? Hãy ghi lại một vài câu thơ mà em biết viết về vẻ đẹp của Bác mà em vừa xác định?

3) Trong câu “Và chủ nhân chiếc nhà sàn này cũng trang phục hết sức giản dị, với bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp thô sơ như của các chiến sĩ Trường Sơn đã được một tác giả phương Tây ca ngợi như một vật thần kì”, tác giả đã sử dụng phép tu từ gì? Nêu hiệu quả của phép tu từ đó?

4) Trong tình hình đất nước ta đang mở cửa, hội nhập với thế giới như hiện nay, việc học tập phong cách Hồ Chí Minh có ý nghĩa như thế nào?

0