Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Câu 1:
Theo em, nguyên nhân quan trọng nhất là sự đoàn kết của toàn dân, chiến lược đánh giá cao tài nguyên con người, sự hỗ trợ của các nước bạn và sự kiên trì, quyết tâm của lãnh đạo và nhân dân Việt Nam là những nguyên nhân quan trọng đã đưa đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Câu 2:
Bài học quan trọng từ thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ là sự đoàn kết, quyết tâm và sự kiên trì trong cuộc chiến. Việc áp dụng những bài học này có thể giúp Việt Nam giải quyết vấn đề biển Đông hiện nay và bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển Đông.
Cụ thể, Việt Nam cần đoàn kết và quyết tâm bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển Đông. Việc này đòi hỏi sự kiên trì trong đàm phán và thương lượng với các nước có liên quan, đồng thời cần sử dụng các phương tiện hợp pháp để bảo vệ chủ quyền trên biển Đông.
Ngoài ra, Việt Nam cần tận dụng tài nguyên con người và kinh nghiệm trong quân đội để xây dựng lực lượng bảo vệ biển Đông mạnh mẽ và hiệu quả. Đồng thời, Việt Nam cần tìm kiếm sự hỗ trợ và hợp tác với các nước bạn trong khu vực và trên thế giới để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển Đông
1. Nguyên nhân thắng lợi:
- Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh- Hậu phương miền Bắc luôn đáp ứng kịp thời các yêu cầu của cuộc chiến đấu ở hai miền
- Có sự phối hợp chiến đấu, đoàn kết giúp đỡ nhau của ba dân tộc ở Đông Dương, sự đồng tình và giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa khác, nhân dân Mĩ và nhân dân thế giới phản đối cuộc đấu tranh xâm lược Việt Nam của Mĩ
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ đã đem những bài học quý giá:
- Một là cả nước đánh Mỹ, đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng nhằm mục tiêu chủ yếu là giải phóng miền Nam.
- Hai là chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện
- Ba là lựa chọn phương thức chiến tranh thích hợp
- Bốn là ba tầng mặt trận thống nhất chống Mỹ: ở trong nước, giữa ba nước Đông Dương và trên thế giới.
- Năm là không ngừng nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954), quân và dân ta đã đạt được nhiều thắng lợi quan trọng. Dưới đây là tên và mốc thời gian mở đầu và kết thúc của ba thắng lợi có ý nghĩa chiến lược về mặt quân sự:
1. Thắng lợi Điện Biên Phủ (13/3/1954 - 7/5/1954): Đây là thắng lợi lịch sử và quyết định của quân và dân ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau 55 ngày giao tranh ác liệt, quân ta đã tiêu diệt hoàn toàn và bao vây lực lượng Pháp tại đây, buộc họ phải đầu hàng và ký kết Hiệp định Geneva vào ngày 21/7/1954.
2. Thắng lợi Hòa Bình (19/12/1946 - 6/3/1947): Chỉ sau hơn hai tháng từ khi cuộc kháng chiến chính thức bùng nổ, quân và dân ta đã đánh tan và đập tan cuộc tấn công lớn của quân Pháp tại các địa điểm Bạch Mã, Hương Sơn và Cần Thơ. Thắng lợi này đã thể hiện sự quyết tâm và khả năng chiến đấu của quân và dân ta.
3. Thắng lợi Hòa Lạc (17/11/1951 - 21/12/1951): Đây là một trong những trận chiến lớn và quyết định nhất trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Quân ta đã tiêu diệt hoặc bắt sống hơn 20.000 quân Pháp, thu giành được nhiều vũ khí, thiết bị quan trọng và góp phần tạo ra điều kiện thuận lợi cho chiến thắng sau này tại Điện Biên Phủ.
Theo ý kiến của em, thắng lợi Điện Biên Phủ có ý nghĩa quan trọng nhất. Lý do là vì thắng lợi này không chỉ kết thúc cuộc chiến tranh chống Pháp mà còn mở đường cho Việt Nam giành được độc lập và tự do. Nó đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam và góp phần khẳng định sức mạnh và quyết tâm của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu cho độc lập. Thắng lợi Điện Biên Phủ đã lan toả lòng tự hào và khích lệ tinh thần không chỉ trong nước mà còn trên toàn thế giới, tạo đà cho các cuộc đấu tranh giành độc lập của các quốc gia thuộc Đông Dương và Châu Phi.
Tham Khảo
Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ, trước hết được bắt nguồn từ sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong suốt cả cuộc kháng chiến, nhất là ở những thời điểm có tính bước ngoặt quan trọng của cuộc chiến tranh, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nắm vững lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, phát động cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, xây dựng và sử dụng lực lượng vũ trang cách mạng làm nòng cốt; đánh địch bằng cả sức mạnh của thời đại ngày nay trong sự kết hợp chặt chẽ với kinh nghiệm truyền thống của dân tộc, của nhân loại; đánh địch bằng sức mình là chính, đồng thời tranh thủ tối đa sự ủng hộ mọi mặt của các nước xã hội chủ nghĩa và bè bạn khắp 5 châu; chủ động tạo nên sự chuyển hóa căn bản về thế và lực, làm cho sức ta càng đánh càng mạnh và đẩy quân địch vào tình thế ngày càng khốn đốn, phải đầu hàng vô điều kiện.
Chiến thắng của Chiến dịch Điện Biên Phủ còn bắt nguồn từ tình đoàn kết trong sáng, thủy chung của nhân dân và quân đội 3 nước Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia trên một chiến hào chống kẻ thù chung và sự ủng hộ chí tình, to lớn, có hiệu quả về vật chất và tinh thần của các nước xã hội chủ nghĩa anh em cùng với sự cổ vũ, động viên của các nước bạn bè, các đảng cùng chí hướng, của nhân loại tiến bộ dành cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, đều là những nhân tố đặc biệt quan trọng góp phần làm nên chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ. Chúng ta mãi mãi ghi lòng tạc dạ về tình cảm sâu nặng và sự giúp đỡ to lớn đó.
Chiến thắng Điện Biên Phủ của dân tộc ta đã chứng minh một chân lý của thời đại: Các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng lợi. Chân lý đó đã thôi thúc và cổ vũ các nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, Mỹ La-tinh đứng lên đấu tranh tự giải phóng, thoát khỏi ách xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Chiến thắng này đã làm thay đổi cục diện thế giới, khẳng định sức mạnh chính nghĩa của Việt Nam, của Nhân dân yêu chuộng hòa bình, độc lập trên thế giới./.
Câu 2)
Chiến dịch Biên Giới là chiến dịch tiến công quy mô lớn đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, khai thông biên giới, mở rộng và củng cố căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc. Đây là chiến dịch do Bộ Tổng Tư lệnh tổ chức, chỉ huy; Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy. Đây cũng là chiến dịch duy nhất đích thân Chủ tịch nước - Hồ Chí Minh ra mặt trận, trực tiếp chỉ đạo. Trải qua 29 ngày đêm chiến đấu vô cùng quyết liệt, anh dũng và mưu trí của quân và dân ta (16-9/14-10-1950), Chiến dịch tiến công Biên Giới Thu-Đông 1950 đã giành được thắng lợi to lớn.
1. Thắng lợi của Chiến dịch Biên Giới mang tầm chiến lược, tạo bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Sau thắng lợi của quân và dân ta trong chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, thực dân Pháp đẩy mạnh việc củng cố hành lang Đông - Tây, đồng thời thực hiện kế hoạch mở rộng phạm vi chiếm đóng ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ, củng cố tuyến phòng thủ biên giới Đông Bắc. Yêu cầu chiến lược của ta lúc này là phá tan âm mưu phong tỏa biên giới phía bắc của địch, mở đường giao lưu giữa nước ta với các nước anh em để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế. Chiến dịch Biên Giới Thu - Đông 1950 mở ra và giành được thắng lợi đã biến quyết tâm chiến lược trên đây thành hiện thực. Chiến thắng đó có ý nghĩa lịch sử to lớn, mang tầm chiến lược; là kết tinh sức mạnh tổng hợp của cả nước, thành quả của quân và dân ta suốt cả chặng đường 5 năm (1945-1950) chiến đấu trong vòng vây bốn bề của chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Trong chiến dịch này, ta đã thực hiện thắng lợi trọn vẹn mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra là giải phóng hoàn toàn khu vực biên giới từ thị xã Cao Bằng đến thị trấn Đình Lập (Lạng Sơn), một địa bàn chiến lược xung yếu, tạo nên một thế trận mới vững chắc. Căn cứ địa Việt Bắc-Thủ đô kháng chiến của cả nước được mở rộng và củng cố, trở thành vùng tự do an toàn. Đường giao thông quốc tế được mở rộng nối liền căn cứ địa Việt Bắc với Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, qua đó đến Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân ở Đông Âu. Thế bị bao vây, cô lập của cuộc kháng chiến được khắc phục. Sự nghiệp “kháng chiến, kiến quốc” của ta có điều kiện thuận lợi để tiếp nhận sự viện trợ về vật chất, vũ khí, trang bị quân sự và học hỏi kỹ, chiến thuật của quân đội các nước anh em, tiếp thu lý luận, kinh nghiệm xây dựng xã hội mới theo nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Thắng lợi này “làm cho toàn dân và toàn quân ta từ Nam chí Bắc vô cùng phấn khởi, tinh thần của quân và dân ta tăng lên một cách nhảy vọt. Mọi người qua thắng lợi đó đều thấy Đảng, Chính phủ, dân tộc mình, quân đội mình và chính mình đã lớn mạnh lên nhiều, rằng kháng chiến lâu dài không phải là vô hạn độ, triển vọng thắng lợi đã nhích lại gần chúng ta hơn trước nhiều, địch đã phải chịu thất bại chua cay và không thể huênh hoang như trước nữa”!(1)
Với thắng lợi của Chiến dịch Biên Giới, cuộc kháng chiến của ta chuyển mạnh từ hình thái chiến tranh du kích tiến lên chiến tranh chính quy, kết hợp chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích ở trình độ cao hơn.
Biên Giới Thu - Đông 1950, đối với phía Pháp là một thất bại cay đắng. Giới cầm quyền và tướng lĩnh Pháp cũng phải thừa nhận rằng, thất bại của quân đội Pháp ở biên giới Cao Bằng, Lạng Sơn trong Thu - Đông 1950 có ảnh hưởng quyết định đối với nửa cuối cuộc chiến tranh, tình thế cuộc chiến đã thay đổi theo hướng bất lợi cho quân Pháp. Trong số các đơn vị bị loại khỏi vòng chiến đấu, có 5 tiểu đoàn cơ động chiến lược, chiếm 55% lực lượng cơ động chiến lược của địch ở Bắc Bộ (5/9 tiểu đoàn), 41% lực lượng toàn Đông Dương (5/12 tiểu đoàn). Thất bại đó gây hiệu ứng dây chuyền, quân Pháp không chỉ phải rút khỏi toàn bộ Liên khu Biên giới Đông Bắc, mà còn phải rút khỏi các vùng quan trọng khác như Lào Cai, Hòa Bình, Thái Nguyên v.v..; thậm chí phía Pháp phải báo động toàn vùng Bắc Bộ và bàn tính đến chuyện rút lui chiến lược về cố thủ từ miền Trung trở vào.
Thất bại đó đã làm phá sản âm mưu “khóa chặt biên giới Việt - Trung” hòng cô lập cách mạng Việt Nam với các nước anh em; tuyến phòng thủ Liên khu Biên giới Đông Bắc bị xóa bỏ, “hành lang Đông-Tây” bị chọc thủng, chủ trương phòng thủ Đông Dương theo “Kế hoạch Rơ-ve” của Pháp tiêu tan.
Sau thất bại ở Biên Giới, quân Pháp lâm vào tình thế khó khăn, mất quyền chủ động chiến lược trên chiến trường Bắc Bộ. Tâm lý lo lắng về thất bại trên chiến trường không chỉ diễn ra trong đội quân viễn chinh Pháp mà ngày càng lan tràn đến giới cầm quyền chính trị và quân sự Pháp. Tại nước Pháp, phong trào đấu tranh chống “cuộc chiến tranh bẩn thỉu” của thực dân Pháp ở Đông Dương ngày càng dâng lên mạnh mẽ. Nhiều nghị sĩ trong Quốc hội Pháp lên tiếng công kích Chính phủ theo đuổi cuộc chiến tranh phi nghĩa, hao người, tốn của ở Đông Dương. Cao ủy, Tổng chỉ huy và các tướng lĩnh Pháp ở Đông Dương mâu thuẫn và tranh cãi quyết liệt về vấn đề tập trung hay phân tán lực lượng để chiếm giữ đất đai, bình định vùng chiếm đóng, giữa giữ đất, giành dân với thu hẹp phạm vi chiếm đóng để bảo toàn lực lượng.
Lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nan, trót “đâm lao phải theo lao”, thực dân Pháp phải tăng thêm quân cho chiến trường Đông Dương, triệu hồi Cao ủy Phi-nhông (Pignon) và Tổng chỉ huy, tướng Các-păng-chi-ê (Carpentier) về nước và cử tướng Đờ Lát-đờ Tát-xi-nhi (De Latre de Tassigny) sang Đông Dương kiêm luôn cả chức Cao ủy lẫn Tổng chỉ huy. Không những thế, Pháp phải cầu viện Mỹ về vũ khí và phương tiện chiến tranh và chính vì vậy, Pháp phải thỏa hiệp, nhượng bộ quyền lợi cho Mỹ, để Mỹ can thiệp sâu vào Đông Dương, điều mà Pháp không muốn nhưng buộc phải làm.
Có thể nói, Chiến dịch Biên Giới mở ra và giành được thắng lợi đã đáp ứng kịp thời những yêu cầu cấp thiết về chiến lược, đưa cuộc kháng chiến chuyển sang một thời kỳ mới - thời kỳ ta giành, giữ và phát huy quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ, liên tục tiến công địch, đánh tiêu diệt với quy mô ngày càng lớn và giải phóng nhiều vùng đất đai quan trọng, tạo được thế trận mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc trước lều dựng tạm trên đường đi chiến dịch Biên Giới 1950.
2. Thắng lợi của Chiến dịch Biên Giới đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Sau 6 năm kể từ ngày thành lập (22-12-1944) đến Thu - Đông năm 1950, Quân đội nhân dân Việt Nam đã lớn mạnh không ngừng trên mọi phương diện và đã giành được nhiều chiến công xuất sắc. Chiến thắng Biên Giới đánh dấu một bước tiến nhảy vọt của Quân đội ta về nhiều mặt, đặc biệt là về nghệ thuật chiến dịch, chiến thuật. Từ những đợt hoạt động, những chiến dịch nhỏ, đến chiến dịch Biên Giới, lần đầu tiên ta mở chiến dịch tiến công quy mô lớn, tập trung tới 4,5 vạn người, kể cả bộ đội và dân, trong thời gian gần một tháng. Đây là chiến dịch lớn, hiệp đồng một số binh chủng, tiến công vào hệ thống phòng ngự mạnh của địch trên tuyến dài gần 100km. Trong chỉ đạo, ta đã đề ra phương châm tác chiến chiến dịch đúng, lựa chọn chính xác hướng tiến công chủ yếu, kiên quyết và khéo léo tập trung ưu thế binh, hỏa lực, tạo thế trận đánh hiểm, có cách đánh sáng tạo và có hiệu quả. Chiến dịch Biên Giới là một điển hình về đánh vận động, truy kích, nghệ thuật đánh điểm, diệt viện và đánh tiêu diệt trong nghệ thuật tác chiến của quân đội ta. Thành công đó đánh dấu bước trưởng thành của quân đội, chứng tỏ trình độ chỉ huy, kỹ thuật, chiến thuật của bộ đội ta có sự tiến bộ vượt bậc. Bộ đội ta đã tác chiến tập trung với quy mô lớn hơn so với trước, tiêu diệt được tiểu đoàn địch trong công sự vững chắc và binh đoàn địch trong đánh vận động. Ta đã giữ quyền chủ động trong suốt quá trình chiến dịch, chuyển hóa thế trận tốt, xử lý tình huống tập trung, chia cắt tiêu diệt từng bộ phận dẫn tới tiêu diệt toàn bộ lực lượng địch trên toàn chiến trường. Bên cạnh đó, trong điều kiện phải chiến đấu dài ngày, tình huống diễn biến mau lẹ, chiến dịch diễn ra trên địa bàn rộng lớn, địa hình phức tạp, nhưng công tác bảo đảm hậu cần, bảo đảm vũ khí đạn dược, thông tin liên lạc, cứu chữa và chăm sóc thương bệnh binh, v.v.., vẫn được đảm bảo.
Không chỉ bó hẹp trên chiến trường biên giới Cao Bằng - Lạng Sơn, Chiến dịch Biên giới Thu - Đông 1950 cho thấy sự chỉ đạo tác chiến đã phát triển lên tầm cao mới. Khi bộ đội ta tiến công địch ở mặt trận chính Cao Bằng, Lạng Sơn thì LLVT và nhân dân địa phương từ Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Bắc Kạn, cả Liên khu 3, Bình Trị Thiên, Nam Trung bộ đến Nam Bộ đều đẩy mạnh các hoạt động phối hợp tiến công địch, “chia lửa” với hướng tiến công chính, buộc chúng phải căng kéo, dàn mỏng lực lượng đối phó ở khắp nơi.
Chính kẻ địch cũng thừa nhận Quân đội nhân dân Việt Nam đến cuối năm 1950 đã “có một phương châm tác chiến vững vàng, điều khiển các trận đánh kế tiếp nhau, gắn bó với nhau một cách mạch lạc và làm cho quân Pháp không kịp thở trên một chính diện rộng lớn từ Đông Khê đến Thất Khê”(2). Trong quá trình Chiến dịch Biên Giới, bộ đội ta đã “thực sự làm chủ tình thế, thay đổi bố trí ban đầu rất nhanh, hướng sự cố gắng vào sự bao vây tiêu diệt quân Pháp”(3). Với cuộc chiến đấu trên đường số 4, Cao Bằng - Lạng Sơn trong Thu - Đông 1950, bộ đội ta “tỏ ra là một quân đội hiện đại, căn cứ vào hình thức tác chiến cũng như sức mạnh trong chiến đấu”(4).
Sau chiến thắng Biên Giới, phát huy thế chủ động chiến lược giành được trên chiến trường chính Bắc Bộ, Bộ Tổng tư lệnh tập trung các trung đoàn chủ lực, thành lập 3 đại đoàn bộ binh (312, 316, 320) và Đại đoàn công pháo 351; liên tiếp tổ chức, chỉ huy các chiến dịch tiến công quy mô lớn ở trung du và đồng bằng, miền núi Bắc Bộ. Đáng kể là: Chiến dịch Trần Hưng Đạo (25-12-1950/18-1-1951), tiến công địch ở trung du Bắc Bộ, từ Đông Việt Trì, Vĩnh Yên, Phúc Yên đến Tây sông Cầu; Chiến dịch Hoàng Hoa Thám (23-3/7-4-1951), tiến công vào tuyến phòng thủ của Pháp trên đường số 18 từ Phả Lại đến Uông Bí; Chiến dịch Quang Trung (28-5/20-6-1951) tiến công vào phòng tuyến sông Đáy của quân Pháp từ Nam Phủ Lý (Hà Nam) đến Yên Mô (Ninh Bình); Chiến dịch Lý Thường Kiệt (29-9/31-10-1951), tiến công địch ở Nghĩa Lộ (Yên Bái); Chiến dịch Hòa Bình cuối 1951 đầu 1952, tiến công địch ở khu vực thị xã Hòa Bình - Sông Đà - Đường số 6, v.v.., đồng thời đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích trên khắp chiến trường Bắc, Trung, Nam và toàn Đông Dương.
Bác Hồ trên đường đi chỉ đạo chiến dịch Biên Giới.
Chiến thắng Biên Giới Thu - Đông 1950 thực sự là bước trưởng thành vượt bậc của Quân đội ta, tạo nền tảng, cơ sở để LLVT ta cùng toàn Đảng, toàn dân giành được thắng lợi to lớn hơn trong giai đoạn tiếp theo của cuộc kháng chiến, mà quan trọng là trong Đông Xuân 1953-1954, với đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ.
Sau những năm chiến đấu giữa vòng vây của quân thù, Chiến dịch Biên Giới mở ra và giành thắng lợi đã góp phần quyết định đưa sự nghiệp kháng chiến của nhân dân ta bước sang một giai đoạn mới. Nói cách khác, chiến thắng Biên Giới Thu - Đông 1950 mang tầm vóc và ý nghĩa chiến lược đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đánh dấu bước thất bại chiến lược của địch; là bước ngoặt, mang lại thế và lực mới cho cuộc kháng chiến, đánh dấu sự trưởng thành của Quân đội ta. Đảng ta khẳng định: “Đi qua Chiến dịch Biên Giới và Chiến dịch Trung Du, quân đội ta đã tiến bộ vượt bậc trên con đường từ du kích chiến, chuyển sang chính quy chiến. Do vận động chiến đã được đẩy mạnh, sự quan trọng của vận động chiến trên chiến trường Bắc Bộ đã được đưa lên ngang hàng với du kích chiến”(5).
Thắng lợi của Chiến dịch Biên Giới đã chứng minh tính đúng đắn đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính mà Đảng ta đã vạch ra ngay từ đầu cuộc kháng chiến. Với tinh thần “tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”, trong suốt những năm “chiến đấu trong vòng vây”, chúng ta đã nỗ lực xây thế và lực cho cuộc kháng chiến, xây dựng quân đội ngày càng vững mạnh, đủ sức tiến hành và giành thắng lợi trong những trận đánh lớn làm xoay chuyển cục diện tình hình có lợi cho ta. Bài học về phát huy nội lực, xây dựng thực lực kháng chiến, xây dựng quân đội để làm nên chiến thắng Biên Giới vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Kỷ niệm 60 năm chiến thắng Biên Giới (1950/2010) diễn ra trong bối cảnh đất nước ta đã giành được nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đang tập trung thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X, hướng tới Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI. Đây là dịp chúng ta ôn lại chiến công vẻ vang của dân tộc, tôn vinh các anh hùng liệt sĩ, những người con của đất nước đã cống hiến máu xương, tuổi xuân, công sức, trí tuệ cho sự toàn thắng của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, khơi dậy niềm tự hào, tinh thần đại đoàn kết dân tộc, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.